HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN
Hotline: 0918148410

Call
 
LIÊN KẾT WEBSITE
THỐNG KÊ TRUY CẬP
mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay58
mod_vvisit_counterHôm qua134
mod_vvisit_counterTuần này783
mod_vvisit_counterTuần trước1677
mod_vvisit_counterTháng này58
mod_vvisit_counterTháng trước4252
mod_vvisit_counterTất cả876439

Hiện có: 3 khách trực tuyến

ĐẠO CÔNG GIÁO

Nguyên Tắc Chung Chứng Đạo Cho Người Theo Đạo Công Giáo:

1. Phải có sự hòa giải. Tìm những điểm chung để tạo sự thông cảm như: Cùng thờ Ba Ngôi Thiên Chúa, là con chiên của Chúa. Tin Kinh Thánh (Phúc âm) là Lời của Chúa. (Ma-thi-ơ 7:24-27, Giăng 10:27). Nên dùng Kinh thánh của Công Giáo.

2. Tránh khích bác, tranh luận (vì họ cũng có những lý luận tôn giáo) (II. Cô 10:4,5; I Ti 6:4,5).

3. Phải đi sát với Kinh Thánh, mọi vấn đề phải có Kinh Thánh chứng minh (đòi hỏi chứng nhân có Kinh Thánh trong tay). Trưng dẫn Kinh Thánh một cách chính xác.

4. Làm chứng cho người Công giáo trong tinh thần học hỏi Lời Chúa. Không nên có tinh thần lên án (vì chính mình cũng cần ăn năn, sửa sai khi học lời Chúa).

5. Luôn luôn bám chặc mục tiêu dẫn họ đến với Jesus để nhận được sự cứu rỗi.

6. Nên dùng những từ ngữ của người Công giáo thường dùng để tạo sự gần gũi, dễ hiểu. Như  Chúa Ki-tô, Phê-rô, Ma-ri-a  v.v... nhờ đó họ không cảm thấy có sự cách biệt về ngôn ngữ.

CÔNG GIÁO CÓ CHÍN ĐỜI GIÁO HOÀNG CẤM GIÁO DÂN ĐỌC KINH THÁNH !

1. Giáo hoàng HILLDEBRAND (1049-1094)

2. Giáo hoàng INNOCENTO III (1198-1216)

3. Giáo hoàng GREGORI IX      (1227-1241)

4. Giáo hoàng PHAOLO IX        (1555-1559)

5. Giáo hoàng CLEMENTO XI   (1700-1721)

6. Giáo hoàng LEON XI              (1821-1829)

7. Giáo hoàng PIO VIII               (1829-1830)

8. Giáo hoàng GREGORI XVII   (1831-1848)

9. Giáo hoàng PIO IX                  (1846-1878)

CÓ BA PHẦN CHÍNH ĐỂ TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI CÔNG GIÁO:

A. GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ SỰ THỜ PHƯỢNG

1.GIÁO HOÀNG LÀ ĐẦU GIÁO HỘI

Chế độ giáo hoàng có từ thế kỷ 4 sau Chúa khi hoàng đế La mã Constantine qui đạo, Cơ Đốc giáo trở nên quốc giáo thì trong giáo hội có sự tranh quyền lãnh đạo. Bầu lên giáo hoàng theo chế độ phong kiến. Giáo hoàng được tôn sùng như Chúa, gọi là Đức Thánh Cha, vô ngộ, rồi phong Phê-rô là giáo hoàng đầu tiên để cai trị cả thế gian, được Chúa giao chìa khóa nước thiên đàng, có quyền mở hoặc đóng, có quyền tha tội hay không tha. Quyền ấy giao lại cho các giáo hoàng kế vị.

Giải đáp:

- Kinh Thánh chép: "Chúa KI-TÔ là đầu Hội Thánh. Hội Thánh là thân thể của Ngài"

(Ê-phê-sô 5:23, I Cô-rinh-tô 12:27).

- PHÊ-RÔ không phải là giáo hoàng.

"Vậy Ta bảo: Con là ĐÁ (petros) viên đá. Trên đá này, Ta sẽ xây (Hội Thánh) giáo hội Ta và sức mạnh của hỏa ngục cũng sẽ không phá được. Ta sẽ giao cho con chìa khóa nước trời, điều gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Điều gì con tha dưới đất, trên trời cũng tha" (Ma-thi-ơ 16:18,19).

Hội Thánh là một tòa nhà thiêng liêng được Chúa Ki-tô phán là: “ta sẽ xây dựng Hội Thánh ta”, Phê-rô là người tuyên xưng Đức Chúa Jesus đầu tiên cho nên trở nên viên đá (petros) đầu tiên trong tòa nhà, mà qua ông có những viên đá khác được cất lên. Bằng chứng là khi ông viết thư gởi cho mọi tín hữu, ông viết: "Chính anh chị em cũng phải là những VIÊN ĐÁ sống động, được dùng vào việc xây dựng nhà thiêng liêng ..." (I Phêrô 2:5).

1.A- Danh xưng ĐỨC THÁNH CHA: Chỉ dùng cho chúng ta xưng cùng Thiên Chúa, dùng cho con người là phạm thượng. "Đừng gọi ai ở dưới đất là CHA, anh em chỉ có một CHA là CHA ở trên trời". (Ma-thi-ơ 23:9). Con người với nhau chỉ là anh em. Hội Thánh đầu tiên không ai gọi Phê-rô là Cha, họ xưng hô là anh em (Công vụ 15:3). Phao-lô nói với Phê-rô rằng: "Nếu anh là người Giu-đa, mà anh ở theo cách dân ngoại, không theo cách người Giu-đa, thì làm sao anh ép dân ngoại phải theo thói Giu-đa" (Ga-la-ti 2:14b).

Vô ngộ: Phê-rô cũng có những sai lầm (Ga-la-ti 2:14)

1.B- QUYỀN THA TỘI VÀ BUỘC TỘI: Giáo hội dạy: Quyền tha tội được Đức Chúa Jesus giao lại cho các Giáo Hoàng và các linh mục.

Đối chiếu với Kinh Thánh dạy:

Phê-rô và các môn đồ không bao giờ bảo người khác đến cho họ tha tội hay làm phép giải tội.

* Phê-rô nói: "AI TIN NGÀI (Jesus) thì sẽ nhờ danh Ngài mà được tha tội" (Công vụ 10:43b).

Chỉ có Thiên Chúa là Đấng có quyền tha tội (Mác 2:6b). Xưng tội với Chúa: Chúa dạy trong bài cầu nguyện chung: "Xin Cha tha tội cho chúng con..." (Ma-thi-ơ 6:6,12).

Gương người thâu thuế xưng tội (Luca 18:13).

1.C- QUYỀN MỞ VÀ ĐÓNG LÀ QUYỀN RAO GIẢNG TIN MỪNG: Chúa Jesus phán: "Người ta sẽ nhân danh Ngài, sự ăn năn và ơn tha tội sẽ được RAO GIẢNG khắp các dân..." (Lu 24:47).

* Phê-rô nói: "Ngài lại truyền cho chúng tôi RAO GIẢNG cho dân chúng... Ai tin Ngài mà nhờ danh Ngài mà được khỏi tội" (Công vụ 10:42,43).

* Phê-rô đã giảng tin mừng, ông đã mở cửa cho 3.000 người bước vào thiên đàng và rất nhiều. Hành động không rao giảng là đóng cửa thiên đàng (Ma-thi-ơ 23:13).

e. Quyền MỞ, ĐÓNG nước thiên đàng là quyền CẦU NGUYỆN (Luca 11:9,10; Ê-phê-sô 6:19, Cô-lô-se 4:3,4).


2. SỰ THỜ PHƯỢNG

2.A – SỰ THỜ HÌNH TƯỢNG:

Người Công giáo thờ Chúa bằng hình tượng, họ tạc rất nhiều hình tượng và tin được linh khi có Cha làm phép.

* Điều răn thứ II: "Chớ tạo hình tượng gì trên trời, dưới đất hay ở trong nước. "CHỚ THỜ LẠY CÁC HÌNH TƯỢNG ĐÓ" (Xuất 20:4,5). So sánh 10 điều răn của Kinh Thánh và của Giáo hội:

KINH THÁNH

1. Trước mặt ta ngươi chớ có thần khác.

2. Chớ làm tượng chạm trên trời, dưới đất và trong nước dưới đất, chớ quỳ lạy trước các hình tượng đó.

3. Chớ lấy danh Gia-vê Thiên Chúa làm chơi.

4. Hãy nhớ ngày nghỉ để làm lên ngày Thánh.

5. Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi hầu cho ngươi được sống lâu trên đất .

6. Chớ giết người.

7. Chớ phạm tà dâm.

8. Chớ trộm cắp.

9. Chớ làm chứng dối.

10. Chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người hoặc tôi trai, tớ gái hay bò lừa thuộc về kẻ lân cận ngươi.

GIÁO HỘI ( 10 Điều răn của Giáo hội Công giáo)

1. Thờ Chúa trên hết mọi sự.

2. Chớ kêu tên Chúa vô cớ.

3. Giữ ngày chúa nhật.

4. Thảo kính cha mẹ.

5. Chớ giết người.

6. Chớ phạm dâm dục.

7. Chớ trộm cắp.

8. Chớ làm chứng dối.

9. Chớ muốn vợ chồng người.

10. Chớ tham của người.

Chú ý: * Trong 10 điều răn của giáo lý Công giáo, họ bỏ điều răn thứ 2 là điều cấm thờ hình tượng và chia điều răn thứ 10 ra làm hai :

9. Chớ muốn vợ chồng người và 10. Chớ tham của người.

Trong Kinh Thánh đây là TỘI THAM LAM chỉ có 1 câu 17 được liên kết bởi các liên từ như “Hoặc” như sau :

Điều 10: "Con chớ tham muốn nhà cửa người khác, chớ thèm muốn vợ người, hoặc tôi tớ trai, tôi tớ gái, bò lừa hoặc bất cứ vật gì của người khác" (Xuất 20:17).

Lý do Chúa cấm thờ hình tượng:

* Vì hình tượng là do người nặn ra, là đất, đá, gỗ, vật vô tri "Ai làm và nhờ cậy nó thì đều giống như nó" (Thi 115:3-8, Ê-sai 40:1-31).

* Không được phép so sánh Chúa với hình tượng (Xuất 20:23, Thi 96:5, Công vụ 17:29).

* Hình phạt cho kẻ thờ phượng (Khải 21:8).

2.B- ĐỀN THỜ VÀ TRANG THỜ:

Người Công giáo tin Chúa ngự tại đền thờ và trang thờ, muốn thờ phượng hay cầu kinh phải hướng về trang thờ.

LỜI CHÚA DẠY:

* Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và vạn vật, là Chúa trời đất. Chúa không ngự trong các đền đài do tay loài người xây cất" (Công vụ 17:24).

* Nơi đền thờ Thiên Chúa ngự là tại tấm lòng (I Cô-rinh-tô 3:16,17).

* Khi người đàn bà Sa-ma-ri hỏi Chúa Jesus: “ Tổ phụ chúng tôi thờ Chúa trên hòn núi này, còn các ông thì nói nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem. Như vậy chổ nào có Chúa. Chúa Jesus đáp: “Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, còn chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết…Sự thờ phượng không còn trên hòn núi này, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem…Thiên Chúa là Thần nên ai thờ Ngài phải lấy tâm linh và lẽ thật mà thờ lạy” (Giăng 4:20-24)

* Chúng ta cho người Công giáo biết là họ chưa có Chúa ngự trong lòng vì:

- Chưa mời Chúa Jesus ngự trị vào lòng mình.

- Còn tin vào sự hiện diện của Chúa trong hình tượng, trên bàn thờ vật chất.

Cho nên sự thờ phượng đó Chúa Jesus gọi là sự thờ phượng thiếu hiểu biết.

2.C –  LẬP BÀN THỜ CÁC THÁNH:

* Điều răn I: "Con không được thờ các thần khác trước mặt Ta" (Xuất 20:3).

Chúa phán: "Con phải thờ phượng Thiên Chúa là Chúa con và chỉ phụng sự một mình Ngài" (Ma-thi-ơ 4:10).

* Các thánh đồ không bao giờ cho phép ai thờ lạy mình.

* Phê-rô ngăn cản Cọt-nây lạy mình: "Xin ông đứng dậy, tôi cũng chỉ là một người mà thôi" (Công vụ 10:26).

* Phao-lô khi thấy đoàn dân tại Li-cao-ni kết tràng hoa lễ bái 2 sứ đồ. Kinh Thánh chép: "Hai ông liền xé áo ra, vội chạy đến với đám đông và kêu lên rằng: Các bạn, các bạn làm gì vậy, chúng tôi cũng chỉ là người như các bạn ..." (Công 14:13-15).

* Các thánh rất run sợ khi thấy ai lạy mình, vì không dám dành sự vinh hiển của Chúa. Như vậy, ngày nay tại sao chúng ta lập bàn thờ ? (Nếu các thánh thấy được như vậy thì họ đập bể dẹp sạch hết như Phao-lô đã làm).

* Có một số người lý luận là họ kính chớ đâu có thờ. Hãy hỏi họ: Đặt hình tượng trên bàn, vậy gọi là bàn gì? Là bàn thờ thôi. Đó chỉ là lý luận bào chữa.

2.D – GIAI CẤP TRUNG GIAN CẦU BẦU:

Người Công giáo được dạy, con người tội lỗi không đến được Thiên Chúa thánh khiết cho nên phải qua Đức Mẹ, các thánh, cầu bầu lên cùng Thiên Chúa. Chỉ có Đức Mẹ, Các Thánh là con người mới thông cảm cho con người để cầu thay lên cùng Thiên Chúa.

  • Trong thời Cựu Ước: phải có giai cấp trung gian là thầy tư tế (tế lễ). Đền thờ chia làm 3 phần: Phần ngoài là hành lang, phần giữa là NƠI THÁNH (nơi dâng tế lễ), phần trong cùng là NƠI CHÍ THÁNH (Thiên Chúa ngự) được ngăn cách bằng một bức màn.

  • Trong thời Tân Ước: Bức màn ngăn cách bị XÉ LÀM HAI từ trên xuống dưới, khi Chúa Jêsus trút hơi thở cuối cùng (Ma-thi-ơ 27:51, Mác 15:36).

+ Ý nghĩa: Không còn sự ngăn cách giữa loài người với Thiên Chúa nhờ sự chết của Chúa Ki-tô.

* Chúa Jesus là Đấng duy nhất làm trung gian giữa loài người với Thiên Chúa (I Ti-mô-thê 2:5).

* Chúa Jêsus là Thầy Tư tế thượng phẩm, Đấng cầu thay: (Rô-ma 8:34, Hê-bê-rơ 7:25). Vì Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người, để thông cảm nỗi khổ của con người để cầu thay. Khi Ngài còn tại thế, Ngài Giáng sinh vào chuồng lừa, nơi mọi người nghèo khổ, bần cùng có thể đến với Ngài được. Khi Ngài đi giảng đạo, Ngài thường ăn chung với kẻ có tội. Ngài đã biết hết tư tưởng của loài người. Khi Ngài thăng thiên Ngài phán rằng: “Ta chẳng để các ngươi mồ côi đâu, ta sẽ đến cùng các ngươi” (Gioan 14:18). Như vậy Chúa Jesus mới là người thông cảm, hiểu chúng ta nhất. Chứ con người làm sao hiểu được nội tâm của người khác?.

LỜI CHÚA DẠY :

* Hãy nhân danh Chúa Jêsus cầu nguyện.

* Hãy nhờ Ngài mà đến gần Thiên Chúa (Gia 4:8, I Phi 2:3,4).

* Nhờ huyết Chúa Kitô để đến gần Thiên Chúa (Hê 10:19).

* Cầu nguyện với Chúa vì Ngài hiện diện khắp mọi nơi (các thánh không hiện diện khắp mọi nơi), cho nên sự cầu nguyện các thánh là vô ích. Có một nghịch lý là người Công Giáo nhờ các thánh không có mặt ở đó để xin chuyển lời cầu nguyện của họ đến với Chúa Jesus, là Đấng ở bên họ. Chúng ta nghĩ như thế nào về hành động đó. Thật buồn cười. Chúa dạy về sự cầu nguyện: Ma-thi-ơ 6:6, Phi-líp 4:6. Đối diện với Chúa.

* Nếu có người khác làm trung gian giữa Chúa với con người chứng tỏ chúng ta còn xa cách Chúa. Ví dụ: Người bạn ở xa nên nhờ người khác làm trung gian. Mác 7:7 chép "dân nầy lấy môi miếng tôn kính ta nhưng lòng chúng nó cách xa ta lắm”

Nếu giáo hội dạy cần có giai cấp trung gian để cầu bầu thì:

* Họ đã kéo bức màn lại mà Chúa phải đổ máu để xé ra (Yoan 23:13). Họ vô hiệu hóa thập tự giá của Chúa Jesus (Êph 2:14-16), là Đấng có đủ thẩm quyền đem con người lại gần Thiên Chúa.

* Họ đã tôn sùng con người, tin cậy và tạ ơn con người. Giáo hội đã xem thường chức vụ cầu thay của Chúa Jesus (nếu người Công giáo cầu các thánh thì tạ ơn các thánh, danh Chúa không được vinh hiển) (Yoan 14:13).

2.E – ĐỌC KINH:

Người Công giáo dạy việc đọc kinh thay cho cầu nguyện bằng những bài soạn sẵn, đọc càng nhiều càng tốt (1 câu kinh có thể đọc ê a đến 50 lần hay luôn luôn), lần hạt để tính số lần đọc kinh. Chúa không cho phép: "Khi các ngươi cầu nguyện, chớ dùng những lời lặp đi lặp lại như người ngoại (các tôn giáo tụng kinh), vì họ tưởng lời mình nói nhiều thì được nhậm" (Ma-thi-ơ 6:7).

* Mỗi người có mỗi nhu cầu khác nhau, cầu nguyện là Chúa muốn chúng ta trình nhu cầu đó (Phi-líp 4:6,7).

* Con nói chuyện với cha đâu cần bài diễn văn. (nếu nhờ người soạn thư sẵn rồi in hàng chục bức thư gửi về cho cha thì làm sao chấp nhận được).

* Nếu con xin cha hoài một nhu cầu nào đó. Nói liên tục 50,70 lần  thì sao chịu được.

2.F – ĂN CỦA CÚNG HÌNH TƯỢNG:

Sau cộng đồng Vatican II, giáo hoàng mở rộng cho cúng lạy người chết (nhang đèn như người ngoại), cho ăn của cúng hình tượng (trước cộng đồng ai thực hiện, ăn uống của cúng là phạm tội trọng, dứt phép thông công).

Theo Kinh Thánh dạy :

* Thiên Chúa gớm ghiếc hình tượng, tà thần (Phục 7:25)

* Của cúng hình tượng là cúng các quỉ chứ không phải đối với Thiên Chúa. Ai ăn của cúng là thông đồng với các quỉ (I. Cô 10:19,20).

* Cấm ăn của cúng hình tượng (I. Cô 10:28).

* Ăn của cúng là TÀ DÂM với ma quỉ (I. Cô 10:21,22 & Khải 2:10-12).

* Hình phạt cho kẻ ăn của cúng hình tượng (Khải 2:10-22). Chúng ta vâng lời giáo hội hay vâng Lời Chúa? (Math 7:21, 24-26). Mở rộng chỉ dẫn đến sự hư mất thì thật nguy hiểm (Math 7:13,14).

2.G – ÁP DỤNG CHỦ NGHĨA ĐỘC THÂN:

Người Công giáo cho rằng linh mục là hiến thân cho Chúa. Để giữ sự thánh khiết cho nên giáo hoàng cấm tu sĩ lập gia đình, họ quan niệm sự chung đụng thể xác là phàm tục. Tu sĩ phải diệt dục, vả lại có gia đình chỉ lo việc đời (luật ban hành năm 1123).

LỜI CHÚA DẠY :

Việc sống độc thân như Phaolô là điều tự nguyện nhưng không phải là luật giáo hội buộc

(I.Cô 9:5).

* Loài người ở một mình thì không tốt (Sáng 2:18, Truyền đạo 4:9).

* Hôn nhân là luật thánh do Thiên Chúa thiết lập (Sáng 2:18-24) không được phép cho đó là phàm tục.

* Mọi người phải tôn trọng hôn nhân (Hêb 13:4).

* Hôn nhân là nhu cầu của con người mà Thiên Chúa ban.

* Các vị tông đồ, Phêrô cũng đã có gia đình cùng đi khắp nơi để phục vụ Chúa (I. Cô 9:5).

* Qui định của Kinh Thánh về chức vụ giám mục (I Ti 3:1-7):

* Là chồng chỉ một vợ (chỉ kết hôn một lần).

* Phải biết cai trị nhà mình, dạy con cái cho vâng phục, xứng đáng (câu 4).

* Không biết cai trị nhà riêng mình thì làm sao cai trị Hội Thánh (câu 5).

* Luật CẤM CƯỚI GẢ bị Chúa lên án là đạo lý của quỉ dữ, chỉ là giả hình của kẻ có lương tâm đã lì (I. Ti 4:1-3). Vì lý do: Chống lại với qui luật tự nhiên, dễ dẫn đến phạm tội tư tưởng, hành động cách giả dối.

Ví dụ: Có những gương thực tế (I. Cô 7:9).

B. CÁC PHÉP BÍ TÍCH

Giáo hội Công giáo La mã dạy có 7 phép bí tích được thực hiện bởi các linh mục cho giáo dân. Chúng ta nêu một số không đúng với Kinh Thánh.

1 – LỄ RỬA TỘI: Họ cho lễ Báptem (baptino) là lễ rửa tội. Hình thức: Linh mục lấy nước rảy hoặc đổ một ít trên đầu người chịu lễ. Giáo hội Công giáo dạy rằng: Qua bí tích này (thanh tẩy) tẩy sạch mọi tội tổ tông, mọi tội lỗi.

Đối chiếu với Kinh Thánh:

* Lễ Báptem không phải là lễ rửa tội. Vì không nước thánh hoặc nước sông nào có thể rửa sạch Tội lỗi chúng ta (tội tổ tông, tội của mình). Chỉ được rửa sạch bởi huyết Đức Chúa Jêsus Kitô mà thôi (I.Yn 1:7, I.Phêrô 1:18,19).

* Nhờ ăn năn tội và tin vào huyết Chúa Kitô (Yn 3:16-18, I. Yn 1:9, Hê 9:12-14). Nước trần gian không rửa được tội lỗi (Hêb 9:12b).

* Lễ Báptem ý nghĩa là lễ quyết định công xưng đức tin và từ bỏ đường cũ, cam kết đồng chết, đồng sống với Chúa trọn đời (Rôma 6:3,4. Côl 2:12).

* Hình thức như Kinh Thánh, đúng với ý nghĩa của chữ BAPTIST (baptino) là DÌM MÌNH XUỐNG NƯỚC. Để bày tỏ ý nghĩa trên, Chúa Jêsus đã chịu phép báptem làm dưới sông Giô-đanh (Math 3:6,13). Cho nên làm báptem phải làm ở chổ có nước. Không thể dùng hình thức cựu ước, tức là lấy chụm kinh giới nhúng vào huyết rảy vào của lễ. Ngày nay, vẫn có một số giáo hội cải chánh truyền thống vẫn dùng hình thức này. Nhưng điều này không đúng với kinh thánh.

2- PHÉP GIẢI TỘI:

Giáo hội Công giáo dạy muốn được tha tội thì phải xưng tội với linh mục và chỉ có linh mục mới có quyền làm phép giải tội, nếu không, thì tội không được tha, họ căn cứ vào câu Kinh Thánh Math 16:19. 18:18. Lễ này được thực hiện mỗi tuần hoặc trước ngày lễ trọng như thương khó, phục sinh.

Đối chiếu với Kinh Thánh :

Các tông đồ không bảo ai đến xưng tội với mình để được giải tội (Công 10:42,43. Rô 10:13). Họ chỉ giảng để mọi người ăn năn với Chúa (Công 14:15).

* Hình thức ăn năn để được tha tội :

* Xưng tội mình với Chúa là Đấng ở khắp mọi nơi (I. Yn 1:9. Math 6:6,12).

* Xưng tội và đền bù với người mình phạm (Math 5:23,24. Luca 19:8).

* Phải quyết chí từ bỏ tội (Lu 3:8).

Gương xưng tội:

* Đavít: ăn năn với Chúa. Thi 51

* Người thâu thuế: nói trực tiếp với Chúa. Luca 18:13.

Chỉ có Chúa là Đấng có quyền tha tội (Mác 2:7-10)

* Người Công giáo đã làm cho đức tin của giáo dân nương dựa nơi con người. Họ chỉ biết Cha (linh mục), nếu không có linh mục, họ không được tha tội.

* Một tuần, một năm xưng một lần thì làm sao nhớ hết tội mình. Điều đó chỉ là hình thức chung chung.

* Họ chỉ đến với con người (cũng tội lỗi) và khiến cho giáo dân tôn sùng linh mục.

3 – LỄ CẦU HỒN:

Giáo hội Công giáo dạy rằng bên cạnh Thiên đàng và Địa ngục, còn có ngục luyện tội, là nơi của người chết trong giáo hội ở để chịu luyện đau khổ trong ngục vì tội mình đã phạm. Muốn thu ngắn thời gian ở ngục luyện tội cho người quá cố, thì người còn sống phải bỏ tiền ra xin lễ cầu hồn, LINH HỒN ẤY ĐƯỢC BUỘC HAY MỞ TÙY THUỘC VÀO TIỀN XIN LỄ (cúng) NHIỀU HAY ÍT (?!!!).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

Không có chỗ nào trong Kinh Thánh chép về ngục luyện tội. Kinh Thánh mô tả chỉ có 2 nơi ở của người sau khi chết :

* Thiên đàng: Cho người tin nhận Chúa được tha tội (Khải 21:2-7. Gi 14:2,3. I Phêrô 1:3-9).

* Địa ngục: Cho người không tin Chúa tội chưa được tha (Gi 3:36, Khải 20:15. 21:8).

Chúa Jêsus phán chỉ có 2 nơi: Thiên đàng và Địa ngục  trong câu chuyện người giàu và Laxarơ (Lu 16:19-30).

* Ở địa ngục không hưởng ân huệ nào (câu 24,25).

* Lời cầu xin không được nhậm (24-31).

* Ra khỏi địa ngục tùy thuộc vào sự ăn năn lúc còn sống (câu 29-31).

* Luật công bình của Thiên Chúa: "Linh hồn cha cũng như linh hồn con, linh hồn nào phạm tội thì phải chết" (Êxêchiên 18:4, Gi 3:36). Tin nhận Chúa Kitô là thoát ra khỏi đoán phạt và được sự sống đời đời (Gi 3:16, Rô 5:1,9. 8:1). Giáo hội đặt ra ngục luyện tội để qua đó thu tiền làm lợi như đã làm bùa xóa tội để bán kiếm tiền xây đền thờ thánh Phêrô ở thời trung cổ (thời kỳ hắc ám).

* Sự cứu rỗi không nhờ tiền mua được (I. Phê 1:18). Giáo hội dạy như vậy thì người giàu có tiền xin lễ được vào hết còn nghèo thì làm sao vào được? Không, Chúa dạy: "Người giàu vào nước Thiên đàng khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim" (Lu 18:24,25). Phêrô trả lời: "Tiền bạc ngươi hãy hư mất với ngươi. Vì ngươi tưởng lấy tiền bạc mua được sự ban cho của Thiên Chúa" (Công 8:20). Phêrô không có tiền, không lợi dụng làm tiền (Công 3:6). Sự cứu rỗi ban cho cách nhưng không (Êph 1:6,7), vì Chúa Jêsus đã trả xong mọi tội của con người trên thập tự giá.

Trong niềm tin cơ đốc giáo Lễ cầu hồn rất nguy hiểm, có ý nghĩa khiến không ai được vào Thiên đàng vì:

* Không tin sự chết của Chúa có đủ thẩm quyền cứu con người ra khỏi địa ngục.

* Không tin Kinh Thánh phán.

* Khiến cho người ta nhờ cậy nơi con người.

* Khiến cho người ta cậy nơi tiền bạc.

* Không lo ăn năn khi còn sống vì hy vọng sau khi chết sẽ được lên Thiên đàng vì chỉ cần có TIỀN xin lễ cầu hồn.

Chúa dạy: “ Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban con một của Ngài. Hầu cho hễ AI TIN CON ẤY. Không bị hư mất mà được sự sống đời đời” ( Gioan 3:16)

* Lời của Đức giáo hoàng Phaolô VI trả lời với Mục sư Billy Graham: "Tôi không biết mình có được vào Thiên đàng không, nếu có được cũng cần nhờ 500 triệu giáo dân cầu cho tôi". Nếu  là Giáo Hoàng mà không biết chắc được vào thiên đàng, phải cần nhờ đến 500 triệu giáo dân cầu cho ông, như vậy thì ai được vào Thiên đàng?

Chúng ta hãy tích cực truyền giảng Phúc Âm, xin Chúa mở mắt cho người Công giáo. Họ tin vào Chúa Jesus để nhận được sự cứu rỗi.

4 –LỄ MI-SA: (rước mình thánh Chúa)

Giáo hội Công giáo dạy rằng: Bánh trong tay của linh mục khi làm lễ sẽ biến thành thịt thật của Chúa (biến thể thuyết). Lễ Misa được thiết lập năm 1100, biến thể thuyết 1215, giáo dân không được dùng chén năm 1415.

Đối chiếu với Kinh Thánh :

Lễ Tiệc Thánh Chúa lập trong bữa ăn cuối cùng với các môn đồ nhằm mục đích :

* ĐỂ NHỚ ĐẾN CHÚA. Tức để suy niệm tình yêu của Ngài (Lu 22:29. I. Cô 11:25). Miếng bánh, nước nho chỉ là hình cụ tượng trưng. Buổi lễ Tiệc Thánh của Chúa lập, Chúa chỉ dùng để tượng trưng, chứ không phải thịt, huyết thật của Chúa, vì lúc bấy giờ Chúa chưa chết. Phaolô cầm bánh bẻ ra vẫn là bánh, nước nho vẫn là nước nho, chứ không biến thành thịt, huyết thật. Đến bây giờ miếng bánh của linh mục cầm vẫn là bánh, nếu tin thành thịt thật thì chúng ta ăn thịt người sao?

Năm 1415 đến nay giáo hội không cho giáo dân uống chén là không vâng mạng lệnh Chúa truyền (I. Cô 11:23-26). Giáo hội Công giáo tin rằng: Mỗi lần linh mục đứng dâng thánh lễ Misa là một lần Chúa chết lại, thành một của lễ mà linh mục đứng dâng, như thời Cựu Ước, thầy tư tế dâng của lễ chiên, bò, dê, bồ câu nhiều lần theo qui định luật pháp.

* Thời Tân Ước, Chúa Jêsus là của lễ chuộc tội đời đời được dâng MỘT LẦN ĐỦ CẢ, điều này Kinh Thánh nhắc lại nhiều lần (Hê 7:27. 9:12,26,27. 10:10).

* Chúa Jêsus trở nên thầy tư tế đời đời, không cần ai làm người dâng của lễ nữa (Hê 4:14. 7:24-27).

C. TÔN SÙNG MARIA

Chúng ta phải xác định Maria mà người Công giáo thờ phượng, suy tôn không phải là Maria thật mà Kinh Thánh chép. Suốt dòng lịch sử, giáo hội đã vẽ ra một Đức Mẹ để suy tôn trên cả Thiên Chúa Ba Ngôi như mẹ Thiên Chúa, "Nữ vương trời đất, trung tâm vũ trụ" v.v... Giáo hội đã dạy và làm một điều mà ngay cả Maria không dám nghĩ, không dám nhận trước mặt Thiên Chúa.

Trong cuốn "MARIA HỌC THUYẾT" của linh mục Trần Đức Huân viết và xuất bản năm 1957. Chúng ta trích nguyên văn để làm bằng chứng, khảo sát lý do sự suy tôn đó, để đối chiếu với Kinh Thánh :

1.MẸ THIÊN CHÚA (Hội nghị HIPPOLITE năm 255)

GIÁO HỘI DẠY: "Đức Mẹ là thân thích với Chúa Cha, cùng sinh Con với Chúa Cha".

"Đức Mẹ, đấng Chúa chọn và đặt làm mẹ Thiên Chúa, mẹ đồng trinh, mẹ cực thánh, cực lành...".

"Đức mẹ thân thuộc với Chúa 3 ngôi... Chức THÁNH MẪU, chức cao trọng BẰNG 3 NGÔI THIÊN CHÚA..." (trang 44-50).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

- Chúng ta xác nhận Maria là mẹ về phần xác của Chúa Jêsus, là người được ơn, người được Chúa dùng, người là tạo vật của Thiên Chúa.

- Lời Maria xác nhận :"Hồn tôi tôn dương Chúa, thần khí tôi nhảy mừng Thiên Chúa, là ĐẤNG CỨU CHUỘC TÔI. Ngài đã đoái đến thân phận HÈN MỌN TỚ NỮ của Ngài..." (Lu 1:46-48).

- Chúa hóa nước thành rượu (Gioan 2:1-12)

- Lời xác nhận của Chúa Jêsus:

- Nói về nhân tánh thì Ngài vâng phục cha mẹ (Lu 3:54), nói về Thần tánh thì Ngài là Thiên Chúa, không có liên hệ gì với Maria, chính vì vậy mà Chúa Jesus nói với Maria rằng: "Hỡi bà kia, Ta với ngươi có sự gì chăng? Giờ Ta chưa đến" (Gi 2:4). Chúa nói với Maria với tư cách của Đấng tạo hóa nói với vật thọ tạo (Gi 1:3). Vì phép lạ liên quan đến Thần tánh của Thiên Chúa. Sau đó chính Maria cũng bảo người hầu bàn phải vâng Lời Chúa cũng hàm ý là đừng đến với bà nữa. (Gi 2:3).

- Chúa hỏi: Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? (Math 12:47,48). Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, thì ai là người sinh ra Thiên Chúa? Giáo hội xưng MẸ THIÊN CHÚA là nghịch lý.

2. MẸ ĐẦY ƠN PHÚC

Giáo hội dạy: "Ta hết thảy là các chi thể trong mình mầu nhiệm Đức Kitô: Thiên Chúa là đầu, Đức mẹ là CỔ, Hội Thánh là MÌNH, Chúa ban cho Đức mẹ đầy ơn phúc, mục đích để Đức mẹ đổ tràn xuống cho hết thảy mọi người" (trang 22).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* Trong Kinh Thánh chỉ gọi Đấng Kitô là đầu, Hội Thánh là thân thể Ngài (Êph 5:23), không bao giờ gọi Mari là CỔ.

* Maria được hưởng phước, nhưng một ngày kia khi Chúa đang giảng có người khen Đức mẹ có phước, nhưng Chúa Jêsus phán rằng: "Kẻ nào nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phước hơn" (Lu 11:27,28). Như vậy, nếu chúng ta làm theo Lời Chúa, chúng ta có phước hơn, vì Thiên Chúa là Đấng ban phước cho chúng ta (Êph 1:3, Thi 16:2).

3. ĐỨC MẸ ĐỒNG TRINH (Cộng đồng 533)

Giáo hội dạy:

"Ngợi khen Thánh Mẫu Đồng trinh, tiết trinh vẫn giữ, thân hình chẳng dơ".

"Đấng đến cứu vớt sự đồi bại của ta, mà khi hy sinh ra, há để đức trinh khiết mẹ mình bị nhơ nhớp".

"Nếu Đức mẹ không đồng trinh trọn đời thì LÀM NHỤC cho Chúa Thánh thần là cung điện của Người" (trang 39-40).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* Những lời nói trên đây chứng tỏ giáo hội cho hôn nhân là dơ dáy, đồi bại ...  Vậy Thiên Chúa làm ô uế con người vì Ngài ban hôn nhân sao? "Mọi người phải tôn trọng hôn nhân" (Hê 1:4).

* Hôn nhân là luật thánh của Thiên Chúa kết hiệp cho loài người, vì thấy loài người ở một mình không tốt (Sáng 2:18-24).

* CHÚNG TA VẪN TIN CHÚA JÊSUS ĐƯỢC SINH BỞI NGƯỜI NỮ ĐỒNG TRINH, nhưng Maria không đồng trinh trọn đời, vì Chúa kết hiệp Giuse với Mari là vợ chồng. Chúa bảo Giuse đem vợ về với mình (Math 1:20).

 

- Không ăn ở cho ĐẾN KHI … (Math 1:25): Ông bà không ăn ở ( tức là quan hệ tình dục vợ chồng) cho đến khi sanh con, tức là có một thời gian giới hạn.

- Người sinh con trai ĐẦU LÒNG (Luc 2:6), CON ĐẦU LÒNG chứ không phải con một, con độc nhất. Chứng tỏ Ma-ri vẫn có con khác. Chúa Jesus đối với Thiên Chúa là Con Độc nhất.

- Chúa Jêsus vẫn có ANH EM (Math 13:55;12:46). Bản Kinh Thánh Anh ngữ là anh em ruột (his brethren) (Công 1:14 & I. Cô 9:4).

- Gia đình Giuse vẫn như bao gia đình khác sống trong làng Nazaret trong suốt 30 năm(Math 13:53-57)

-  Chính họ cũng xác nhận: (Lu 2:48). Cha me .

Tất cả mọi dữ kiện của kinh thánh trên đã chứng minh Maria không đồng trinh trọn đời.

(Vấn đề tin hay không tin Maria đồng trinh cũng không liên quan gì đến sự cứu rỗi)

4. MẸ NHÂN LOẠI:

Được tuyên xưng trong kinh "mân côi" do giáo hoàng LEO XIII giới thiệu: "Đức Maria là MẸ THIÊN CHÚA và mẹ nhân loại, mẹ Hội Thánh, cùng là mẹ chúng ta" (trang 54).

"Thúc dục mọi người đồng tâm cầu khẩn cùng Mẹ, mong Mẹ đoái thương đến con cái Mẹ vậy" (trang 55).

"Đức mẹ là kho tàng ân phúc, là Đấng ban ơn phúc, nên người thật là MẸ LINH HỒN" (trang 57).

"Lạy Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là mẹ loài người ... Mẹ đem sự sống muôn đời cho nhân loại..." (trang 58).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* Các vị Tông đồ không bao giờ nhắc đến Mari là mẹ Hội Thánh, cũng không bao giờ nhắc đến người.

* Thiên Chúa tạo nên con người không nhờ mẹ (Sáng 2:7. Thi 138:14,14).

* Con người chỉ có một Cha trên trời (Math 23:9).

* Chúa Kitô bảo và chỉ nhắc đến CHA là Thiên Chúa mà thôi (Math 2:1,4,6,8-15,18...).

* Các vị Tông đồ chỉ gọi Thiên Chúa là Cha. Phêrô: (I Phê 14-17) Gioan: (I Gi 3:9,10), Phaolô: (Êphêsô 1:2. 4:6).

* Phải cầu nguyện cùng Thiên Chúa (Rô 10:13. Phil 4:6).

5. ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI

Ngày 3/11/1950 trong lễ các thánh, Đức Giáo hoàng PIE XII tuyên bố tín điều “ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI”. Giáo hội lý luận rằng: Con lên trời lẽ nào để mẹ ở dưới đất.

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* Mari sống đồng thời với các vị Tông đồ, tức thời kỳ chép Kinh Thánh Tân Ước, nhưng Kinh Thánh không bao giờ nói đến việc Maria lên trời, trong Kinh Thánh có chép về việc rước Êli (Cựu Ước), Chúa Jêsus (Tân Ước) lên trời, mà sự kiện Maria lên trời lại quên sao?

Đến năm 1950, giáo hội tuyên bố tín điều chỉ căn cứ vào một lý luận không có gì bằng chứng. Đó chỉ là điều lừa dối, không đáng tin. Thân thể bằng bụi đất, trở về đất. Linh hồn mới cao quí. Chúng ta hy vọng ngày Chúa tái lâm chúng ta được sống lại mặc lấy thân thể mới cất lên không trung gặp Chúa, trong đó có Maria và các Thánh.

6. ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP:

Giáo hội dạy: "Lạy Mẹ đồng trinh, xin hãy lôi kéo con đến gần Mẹ... Mẹ hằng an ủi con cái giữa cơn ba đào nơi biển khổ... Hễ xin thì được, có cầu Mẹ sẽ giúp cho..." (trang 69,70).

"Đức mẹ là Đấng TOÀN QUYỀN CẦU KHẨN" (trang 76).

"Người lấy uy quyền Mẹ Thiên Chúa. Hễ Đức mẹ xin thế nào, Chúa cũng phải nghe" (trang 75-77).

Giáo hội dạy: "Chúa Cha đã ban cho Chúa Con quyền trên trời dưới đất. Nay Chúa Con lại trao quyền tối cao ấy cho mẹ Ngài..." (trang 77).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* Kinh Thánh dạy: "Hãy đến gần Chúa" (Hê 10:22. I Phê 2:3,4. Gia 4:7), chứ không phải đến gần với Đức Mẹ.

* Đức Thánh Thần là Đấng yên ủi (Gi 14:16,26).

* Hãy nhân danh Chúa Jêsus mà cầu nguyện với Thiên Chúa (Gi 14:13,14. 16:24. Lu 11:1-13), chính Maria cũng cầu nguyện với Thiên Chúa (Công 12:14).

* Chỉ có Chúa Jêsus là Đấng hiện diện khắp mọi nơi là Đấng toàn quyền cầu thay (Rô 8:31, I Ti 2:5, Hê 7:24,25).

Hãy xem Kinh Thánh :

* Chúa Jêsus tuyên bố: "Hết cả quyền phép trên trời đã giao cho Ta" (Math 28:18).

* năm 45-50 SC Phêrô vẫn xác quyết quyền tối thượng trong Chúa Kitô trong thời Hội Thánh đầu tiên (Công vụ 2:32-36, 10:42). "Nguyền xin quyền phép về nơi Ngài, đời đời, vô cùng. Amen" (I. Phê 5:11).

* năm 55 sau Chúa, Phaolô xác quyết khi gởi thơ cho Hội Thánh Philip: "... Thiên Chúa đã đem Ngài lên rất cao và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, khi nghe đến danh Chúa Jesus mọi đầu gối trên trời, đưới đất, bên dưới đất thảy đều quỳ xuống, mọi lưỡi thảy đều xưng Chúa Jesus Christ là Chúa mà tôn vinh Thiên Chúa là Cha” (Phil 2:9,10).

* Năm 80 sau Chúa, Chúa Jêsus hiện ra cùng Giăng trên đảo Bátmô phán rằng: "... Ta là Đấng đầu hết, sau hết và hằng sống. Ta đã chết, nay Ta sống đời đời CẦM CHÌA KHÓA CỦA TỬ THẦN VÀ ÂM PHỦ" (Khải 1:17).

Như vậy không bao giờ có lời như Giáo hội dạy. Suốt cả Kinh Thánh, các tông đồ đều tôn cao danh Chúa Jêsus. Giáo hội đã dẫn giáo dân đi đến chỗ sai lạc bằng những lời tự đặt.

+ Nếu làm hoàng đế thì quyền ấy không bao giờ giao cho mẹ cả.

7. MẸ HÒA GIẢI:

Giáo hội lý luận: Trong gia đình mẹ là người thường hòa giải giữa cha con. Nên có câu "Bố đánh cửa trước, con chuồn cửa sau", nghĩa là chạy vào nhờ mẹ đỡ bênh cho (trang 83).

Giáo hoàng PHIO X dạy: "Đức mẹ là đấng hòa giải và điều đình trước mặt Con Một Người cho cả thế giới" (trang 84).

"Chúa Jêsus là Thiên Chúa, quan án chánh trực. Ai dám đứng trước mặt Chúa. Ai dám táo bạo đến gần Ngài. Ta thảy đều là hèn tội lỗi" (tr. 85).

Đối chiếu Kinh Thánh :

* Nên nhớ Chúa Jêsus cũng là người (nhân tánh), khi còn ở thế gian Ngài thường đến gần gũi với người tội lỗi để thông cảm và cứu giúp họ (Math 9:10-13. Lu 19:5-7...).

* Chính Chúa Jêsus đến trần gian, bởi sự chết của Ngài để làm cho con người được hòa thuận với Thiên Chúa ( Ro6ma 5:8-11; Êphêsô 2;13-18 ; Côl 1:21,22).

* Chúa Jêsus là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa với con người (I Ti 2:5).

* Chúng ta được phép đến gần Thiên Chúa (Hê 7:25. 10:19). Ngày nay Chúa giao chức vụ giải hòa cho Hội Thánh Ngài tức là rao giảng tin mừng để ai nấy tin nhận Chúa Jêsus, để nhờ Ngài được hòa thuận với Thiên Chúa (II. Cô 5:18b-21).

* Thiên Chúa không bất công, không tây vị ai hết, Ngài yêu thương tất cả mọi người có lòng thành, đức tin đến Ngài (Gia 1:5. I. Ti 2:4).

+  Không thể xem Chúa như người thế gian: Thiên vị, đút lót, hối lộ ngã sau, mới giải quyết.

8. MẸ CẬY TRÔNG:

Giáo hội gọi Mẹ là Hòm THI ÂN. "Hãy trông cậy, hãy chờ đợi phần cứu rỗi nơi Đức mẹ lòng thành của loài người" (trang 111). "Duy Đức mẹ là nơi trú ẩn độc nhất, là hy vọng số một của kẻ tội lỗi" (trang 114).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* ĐAVIT để lòng trông cậy nơi Thiên Chúa (Thi 52:8,9).

* Kinh Thánh dạy: Thiên Chúa là nơi trông cậy của loài người (Châm 3:26. Ca 3:24. Công 24:15. I Ti 4:10. I. Phê 1:21).

* Trông cậy nơi Chúa Jêsus (Êph 1:12. I. Tê 1:3. I. Ti 1:1).

* "Hãy đặt hy vọng vào Chúa...", "Còn những ai trông cậy vào Chúa sẽ được phần đất làm cơ nghiệp" (Thi 37:7,9).

* "Lạy Chúa, Chúa là ĐÁ TẢNG cho tôi NƯƠNG TỰA" (Tv 28:1).

* “Chớ nhờ cậy nơi các vua, cũng đừng nhờ cậy nơi con loài người là nơi không có sự tiếp trợ. Hơi thở tắt đi, loài người bèn trở về bụi đất. Trong chánh ngày đó, các mưu mô nó liền mất đi. Phước cho người nào có Gia Ve giúp đỡ mình. Để lòng trông cậy nơi Gia Ve” (Thánh Vinh 146: 3- 5)

Tất cả Kinh Thánh đều kêu gọi con người đến trông cậy nương tựa vào Chúa mà thôi. Tại sao giáo hội lại kêu gọi, đưa người ta đến nương tựa nơi Đức Mẹ chỉ là con người?

9. ĐỨC MẸ MARIA, DANH TRÊN MỌI DANH:

"Thoạt nghe danh thánh Maria, các thánh trên trời thành tâm kính bái, ma quỉ chốn ngục hình toàn thân run sợ, các giáo dân đồng tâm kính tôn" (trang 120).

Thánh Đêni: "Tôi đã quì xuống THỜ LẠY và nhận Đức Mẹ là THIÊN CHÚA" (trang 62).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* Danh Chúa Jêsus danh trên hết mọi danh.

(Phil 2:9,10. Mác 16:17).

* Chỉ thờ MỘT THIÊN CHÚA.

(Xuất 20:3. Phục 6:13. Math 4:10).

* Tôn thờ và nhận con người là Thiên Chúa thì thật là xúc phạm, đáng tội trọng.

10. BÀ CHÚA MUÔN LOÀI:

Thánh Bêndin nói: "Việc Đức Mẹ ưng thuận khiêm tốn như vậy đáng phủ việt vũ trụ và quyền hành cai trị muôn vật. Người là NỮ VƯƠNG TRỜI ĐẤT, Bà Chúa Thiên đàng, toàn quyền trong nước Đức Kitô" (trang 132,133).

Thầy Ghêrích than thở: "Lạy Đức Mẹ Maria xin đừng do dự nữa, Đức Mẹ cứ hiên ngang thi hành quyền bính mình, Đức Mẹ hãy ban phát mọi ơn lành tùy ý Mẹ. Vì Đức Mẹ là Mẹ Vua vũ trụ, Đức Mẹ hãy cầm quyền và cai trị muôn loài tạo vật" (trang 134).

Đối chiếu Kinh Thánh :

* Chỉ có 3 ngôi Thiên Chúa tạo dựng và cai trị muôn vật (Thi 103:19-22). Trong khải tượng của Thiên đàng, nước Thiên Chúa được chép trong Khải Huyền. Không bao giờ nói đến uy quyền của Maria như giáo hội nói.

* Chúa Jêsus là Đấng cai trị (Khải 19:15). Các thánh (trong đó có Maria) đều phải suy tôn Ngài là Thiên Chúa đời đời (Khải 15:3,4. 11:15-18).

* Chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn năng, cầm quyền cai trị (Khải 19:6. Tv 29:1-4).

11- ĐỨC MẸ CAI TRỊ TRONG NƯỚC CHÚA KI TÔ:

Giáo hội dạy: Nữ vương Maria, nữ chỉ huy trong nước Chúa, Nước Đức Mẹ, trong tâm hồn giáo dân (trang 105).

"Giáo hữu là dân riêng của Đức Mẹ" (trang 141).

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* Chúa Jêsus là thủ lĩnh, cai trị (Côl 2:10).

* Nước Thiên Chúa trong lòng người (Lu 17:21).

* Tín hữu là dân riêng của Thiên Chúa (I. Phê 2:9).

12 -  Đức Mẹ là NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN:

Đối chiếu với Kinh Thánh :

* Thiên Chúa là Chúa BÌNH AN (Rô 15:33. Phil 4:9).

* Chúa Kitô là Chúa bình an (II. Tê 3:16. Ês 9:5).

* Chúa Jêsus ban sự bình an (Gi 14:27).

Giáo hội Công giáo La mã đã tôn xưng trên 200 danh hiệu để suy tôn Đức Mẹ. Nên nhắc lại đây là một Maria do giáo hội vẽ ra chứ không phải là hình ảnh của Maria thật trong kinh thánh. Chính họ đã tô son vẽ phấn để làm sai lệch đức tin của giáo dân nơi Thiên Chúa. Công Giáo La Mã được gọi là Mẫu hội. (Giáo hội Mẹ)

Đúng như Kinh Thánh chép trong khải Huyền 13: 11-18 nói về con thú thứ 2, có sừng như sừng chiên con (Thiên Chúa), nhưng nói tiếng con rồng (ma quỉ), Đức mẹ Fatima là tượng đức mẹ ở làng Fatima Lộ Đức. Đã truyền thông điệp cho 3 thiếu niên  “con thú có quyền hà hơi sống vào tượng nói được”.

trong bản thông điệp Đức Mẹ Fatima giải mật lần 1 tôi đã nhận được: ở dưới ấn ký 666.(Khải.13: 18). Trong bản thông điệp này kêu gọi mọi người hãy đến với mẹ, yêu mẹ. Siêng năng lần hạt đọc kinh Mân côi. Bức thông điệp được giải mật lần thứ 3 vào trước năm 2000. đã tiên tri là sẽ có 3 ngày đêm tối tăm, không có gì thắp sáng được trừ nến thánh. Sẽ có động đất rung chuyển toàn cầu. Quỉ sứ hành động-phải luôn đọc kinh mân côi và cầu xin Đức mẹ thương xót, gìn giữ… Thông điệp nầy đã làm cho nhiều người xao động, mua nến xin linh mục làm phép… nhưng thực sự việc ấy không xảy ra (tác giả đang lưu giữ thông điệp này).

 

Tìm hiểu thêm – Khía cạnh thần học

BA BY LÔN LỚN (Khải Huyền 17,18)

Đế quốc Babylôn hiện nay không còn hiện hữu trên thế giới. Nhưng tại sao lời tiên tri trong Khải huyền Babylôn vẫn còn tồn tại cho đến ngày phán xét. Đó chính là đế quốc La- mã“thánh” . có những bằng chứng để xác định lời tiên tri babylôn là công giáo Lamã:

- Tôn thờ một người đàn bàđược tôn xưng là NỮ VƯƠNG TRỜI ĐẤT. Như chúng ta đã nghiên cứu về việc giáo hội suy tôn Maria. Người ta thường gọi giáo hội công giáo là Mẫu Hội. Maria ngày xưa là một người đàn bà góa. Nhưng Maria mà giáo hội tôn xưng là Mẹ nhân lọai. Mẹ Chúa Trời. Mẹ Vua vũ trụ!!!. Thậm chí khi nói đến 3 ngôi Thiên Chúa: Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Thần thì người công giáo gọi Maria là Đức Mẹ. Được tham dự trong 3 ngôi Thiên Chúa cũng có nghĩa là Thiên Chúa là chồng, Maria là Vợ để sinh Jesus.(18:7). Chính vì vậy, họ không chấp nhận Giu se quan hệ với Maria là chồng, nhưng chỉ là người bạn.

-  17:3,4 “người đàn bà ngồi trên lưng một con thú sắc đỏ sậm, trên mình mang đầy những tên sự phạm thượng”. Người đàn bà này chỉ về một Đức Mẹ được Các vị Giáo Hoàng của Giáo Hội vẽ ra. Một con thú sắc đỏ sậm chỉ về Đức Giáo Hoàng phong tặng và tôn sùng Maria hơn cả ba ngôi Thiên Chúa. Áo lễ của Giáo Hoàng bằng màu đỏ điều. Mang đầy những tên phạm thượng đó chỉ về những danh hiệu mà giáo hội đã phong cho Đức mẹ.

-  17:5 MẸ KẺ TÀ DÂM:

* Tà dâm thuộc linh: đó chính là thờ phượng Hình tượng, ăn của cúng hình tượng, thông đồng với các quỉ. (Icôr.10:19-22, IIcôr.6:14-16; Khải.2:20).

* Tà dâm thể xác: luật cấm cưới gã, Chủ nghĩa độc thân, diệt dục là một trong những con đường dẫn đến tà dâm, có thể ngay trong tư tưởng, khi con người cố chống lại với luật hôn nhân của Thiên Chúa. Đây là giáo luật Kinh Thánh lên án đó là bội đạo, theo thần lừa dối và  Đạo Lý của Quỉ dữ. ( Iti.4:1-4 ) trong cuốn lịch sử giáo hội công giáo cuốn 3 đã cho thấy sự thật đó. Lịch sử gọi là thời kỳ hắc ám.

- 17:6  Người đàn bà đó SAY HUYẾT CÁC THÁNH ĐỒ VÀ HUYẾT NHỮNG KẺ CHẾT VÌ ĐỨC CHÚA JESUS.

- Từ thế kỷ thứ 14 –15 bởi 1 câu kinh thánh “Người Công bình sống bởi Đức Tin” (Rôma1:17) Matin Luther đã khởi xướng cuộc cải chánh. Chỉ  Tin Chúa Jesus được xưng Công Bình, trở nên người Thánh. Đức tin hướng về danh Chúa Jesus, bảo đảm nhận được sự cứu rỗi. Tôn xưng Ngài là Danh trên hết mọi danh. Qua cuộc cải chánh đó. Đức Giáo Hoàng đã cùng với chính quyền lập Tòa án Pháp đình giết chết hàng  ngàn các Thánh đồ là những người tin theo Chúa Jesus, trở về với Kinh Thánh. (Lịch sử Hội Thánh sẽ cho thấy rõ điều đó).

 


Khi chúng ta hiểu biết những điều của Giáo hội Công giáo dạy, lòng chúng ta đau đớn xót xa, vì họ không hề biết và đọc Lời Chúa (họ thú nhận điều đó khi được nghe làm chứng). Tất cả những điều Giáo hội Công Giáo dạy đã làm cho công giá chuộc tội của Chúa Jesus không còn đủ thầm quyền để cứu con người. Đã áp dụng phương thức tôn giáo của dân ngoại như thờ hình tượng, đọc kinh, diệt dục… Điều này đã dẫn các giáo hội bị hình phạt trong ngày đoán xét.

Cảm tạ Chúa, ngày nay, giáo hội công giáo đã cho giáo dân đọc kinh thánh, nhưng phải hiểu theo giáo hội giải thích. Cũng biết rằng Kinh Thánh  Công giáo còn có 7 sách được gọi là ngụy kinh.  (Công Giáo gọi là kinh điển thứ). Chúng ta hãy tích cực rao giảng Phúc Âm để đưa họ hiểu biết lẽ thật và ý muốn của Thiên Chúa, hãy tích cực cầu nguyện cho họ, xin Chúa Thánh Linh mở mắt để họ hiểu lời Ngài. Theo lời tiên tri thì giáo hội Công Giáo sẽ tồn tại đến ngày tận thế, Chúa kêu gọi Hãy ra khỏi Babylon lớn, khi họ hiểu rõ được lẽ thật của kinh thánh.

Hãy mềm mại chia sẻ Lời Chúa để đưa họ đến với Chúa Jêsus để nhận được sự CỨU RỖI. Thể hiện lời nói có uy quyền của Thánh Linh, thể hiện được quyền năng của danh Chúa Jêsus, quyền năng trong sự cầu nguyện nơi Chúa linh nghiệm, để họ dễ dàng quay về với Chúa là Cha hiện hữu của chúng ta. Amen.

MS. PHẠM TOÀN ÁI


 

CHƯƠNG 2:

TRUYỀN GIÁO CÁC TÔN GIÁO

I. Vô thần.

II. Lương giáo.

III.Công giáo La Mã.

IV.Phật giáo.

V.Cao Đài

VI.Chủ nghĩa hiện sinh

Chương 3. Nhận định tà giáo.

I.Chứng Nhân Giê Hô Va.

II. Cơ Đốc Phục Lâm.


Note: SÁCH MÔN ĐỒ HÓA - CHỨNG NHÂN - CHỨNG ĐẠO - CHĂM SÓC


 

CƠ ĐỐC PHỤC LÂM

CƠ ĐỐC PHỤC LÂM

GIÁO HỘI NGÀY THỨ BẢY

( Phúc âm đời đời )

Để hiểu rõ hơn về CƠ ĐỐC PHỤC LÂM XIn đọc qua bài: Ý NGHĨ NGÀY SA-BÁT (Click here)

 

I. Lịch sử:

William Miller, sống tại Law Hampton, NewYork đã tính con số trong sách Đaniên 8:14, có 2.300 ngày. Đã xác quyết niềm tin và tuyên bố năm 1844 Chúa Jêsus sẽ tái lâm. Bà Ellen G. White được xưng làNữ Tiên Tri ủng hộ mạnh mẽ thuyết 1844 Chúa tái lâm, bà đã viết rằng:

“Tuần lễ thứ 70 đã bắt đầu từ năm 457 TC và chấm dứt năm 34 SC. Ngày này chúng ta không khó để tính ra thời khoảng 2.300 ngày, 70 tuần lễ là 490 ngày. Vì vậy, 2.300-490 ta còn 1810 ngày, 1810 ngày bằng 1810 năm. Vậy, từ năm 34 tức đúng 1844 năm. Vì vậy, 2.300 ngày của Đaniên 8:14 chấm dứt năm 1844”. Nhưng đến thời điểm đó, Đấng Christ không tái lâm, để bào chữa cho ông Miller, bà White đã quả quyết rằng Chúa đã trở lại nhưng Ngài ngự trong nơi Thánh là giai đoạn 2 trong công cuộc để khởi đầu cuộc điều tra phán xét, để làm sạch nơi Thánh và chuẩn bị cho sự tái lâm hiện diện của Ngài sau đó.

Cho nên được gọi là Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm, được chính thức thành lập năm 1864 tại Hoa Kỳ.

II. Giáo lý:

  1. Chúa Jêsus  tái lâm năm 1844, nhưng chưa thấy Chúa tái lâm, bà White được xưng là Nữ Tiên Tri. Đã nói là Chúa Phục lâm trong nơi thánh cách vô hình để điều tra làm cho thánh trước khi Chúa tái lâm thực tế.
  2. Phải giữ luật pháp và đặc biệt là ngày thứ 7 ở điều răn thứ tư. Theo chủ trương của bà G.White có 3 giai đoạn trong công tác cứu chuộc:

-                      Giai đoạn 1: Chúa chịu chết trên thập tự giá.

-                      Giai đoạn 2: Ngài bắt đầu thực hiện từ năm 1844 để phục hồi lại việc giữ luật pháp.

-                      Giai đoạn 3: Bà White đã thấy Đấng Christ vào nơi thánh làm công tác điều tra và Ngài chỉ vào điều răn thứ tư bảo phải giữ ngày Sabát – ngày thứ 7.

Đây chính là  điểm chính của Cơ Đốc Phục Lâm. Tức là họ chủ trương phục hồi việc giữ ngày thứ 7 làm ngày nghỉ, ngày thánh, ngày thứ 7 như là ấn đời đời, là ngày thánh (Khải 7:3,4: 14:1,4: 5)

Họ chủ trương rằng:

-          Họ lên án giữ ngày thứ I là mang dấu của con thú thứ 2 được chép trong Khải Huyền 13.

-          Bỏ ngày thứ 7 là phạm luật pháp, không được cứu.

-          Ngoài ra phải kiêng cử tất cả mọi vật mà luật pháp Môi se  cho là ô uế.

-          Kẻ ác được sống lại chịu phạt, xiềng trong 1000 năm bình an rồi bị tiêu diệt, không còn nữa, không có sự hình phạt đời đời.

III. Truyền giáo:

Cơ Đốc Phục Lâm tích cực sử dụng những phương tiện truyền thông để rao truyền phục hồi việc giữ luật pháp và ngày thứ 7.

-          Truyền thanh: Radio là phương tiện được gọi là tiếng nói của lời tiên tri. Được phát đi mỗi ngày và đặc biệt là ngày Chúa nhật được các trạm tiếp âm truyền đến các lục địa qua mọi ngôn ngữ như Việt Nam có cơ quan An Bình và Hạnh Phúc Radio do MS Dương Quốc Tùng chủ nhiệm.

-          Truyền thông bằng ấn bản nhỏ, có tích chuyên đề như “lẽ thật ngày sa bát” của Dương Quốc Tùng để truyền giữ ngày thứ bảy và lên án giữ ngày chúa nhật.

-          Truyền giáo mở Hội thánh Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật, tài trợ cho người truyền giáo tại Việt Nam. mục tiêu của Cơ Đốc Phục Lâm (Phúc âm đời đời) là theo sát người Tin lành để cố gắng thuyết phục giữ ngày thứ 7 và kiêng các thức ăn đã qui định trong cựu ước. Dương Quốc Tùng đã sử dụng tên là PHÚC ÂM ĐỜI ĐỜI. Hiện nay, theo thống kê mới nhất , có khoảng 10 triệu tín hữu trên toàn thế giới.

 

TRẢ LỜI NHỮNG LÝ LUẬN CỦA CƠ ĐỐC PHỤC LÂM TRÊN LẼ THẬT KINH THÁNH.

 

Như phần đầu chúng ta đã học biết lẽ thật ngày sa bát mà Đức Chúa Trời muốn dân sự của Ngài biết qua sự yên nghĩ trong Chúa Jesus phục sinh. Chúng ta có thể căn cứ vào những luận điểm của Cô Đốc phục lâm thường sử dụng để trả lời theo như lẽ thật trong kinh thánh đã minh chứng:

 

1. Luật Sabát thứ 7 là đời đời

Đáp: Chỉ hạn chế trong Cựu Ước, tức là giao ước cũ và Đức Chúa Trời đã lập 1 giao ước mới trong Chúa Jêsus.

Lời Chúa phán: Có 1 ngày khác Sabát cho dân Đức Chúa Trời (Hêb 4:8,9).

Ngày Sa bát thứ 7 chấm dứt, cho nên trong Tân Ước, không còn đoán xét về sự ăn uống, ngày lễ, ngày Sabát cũng có nghĩa là không cần phải giữ nữa vì đó là tiên tri việc sẽ tới. Còn hình ở trong Đức Chúa Jêsus. (Côlôse 2:16,17)

Luật Sa Bát là đời đời. Chữ SABAT là yên nghỉ.     Nhưng phải biết lẽ thật:

(1) - trong thời Cựu Ước là ngày Sa Bát thứ 7. Sáng .2:2;

(2 ) - Thời Tân  Ước  là ngày Sabát . Bước vào sự yên nghỉ trong Chúa Jêsus .(Hêb. 4:8-10).  TỨC LÀ YÊN NGHỈ TRONG Chúa Phục Sinh. Mà ngày thứ 1 là ngày đánh dấu sự sống lại của Chúa Jesus.

(3) -  Đến khi thế giới kết thúc , con dân Chúa, những kẻ được chọn. Ngày đêm thờ phượng, ca ngợi Đức Chúa Trời và  Chiên con ( Bước vào sự yên nghỉ trọn vẹn trong Thiên Đàng. ( Khải .7:9-17) sự yên nghỉ đời đời.

 

Trong cuốn “ngày sa bát đã bị bỏ” của ông Dương Thưởng có 2 lần trưng dẫn Hêb.4:4,10 ( trang sb7bb) và Hêb.4:4,9,10(trang sb11bb) Ông cố ý không trưng dẫn câu”Nếu Giô Suê cho họ yên nghỉ thì sau KHÔNG NÓI VỀ MỘT NGÀY KHÁC NỮA.VẬY THÌ CÓ MỘT NGÀY YÊN NGHỈ CHO DÂN ĐỨC CHÚA TRỜI..”Ông chỉ trưng dẫn”vì luận ngày thứ bảy có chép rằng: Ngày thứ bảy Đức Chúa Trời nghỉ cả công việc của Ngài. (bỏ câu 8) Vậy thì còn một ngày yên nghỉ cho dân Đức Chúa Trời..” Chứng tỏ ông Dương Thưởng đã đoạn chương thủ nghĩa để làm cho người đọc không biết về MỘT NGÀY KHÁC hầu bảo thủ cho ngày Sa bát thứ 7.

 

 

 

2.Cần phải giữ luật pháp, nếu không thì không được cứu.

 

Cơ Đốc phục lâm nói bỏ ngày Sabat thứ 7 là phạm hết luật pháp. Và ông Dương Quốc Tùng nói rằng, chỉ có người giữ ngày Sa bát thứ 7 mới là người được chọn. Ngay cả việc kiêng cử thức ăn, những thức ăn luật pháp Môi se cho là ô uế thì không được ăn.

Đáp: Trong thời ký hội thánh đầu tiên, khi các hội thánh dân ngoại tin Chúa Jesus, họ tin chắc sự cứu rỗi. Nhưng thời bấy giờ vẫn có người Giu Đa cũng tin Chúa và đi khắp các hội thánh vùng tiểu á để buộc những người tin Chúa Jesus phải giữ luật pháp Môi Se. Phaolô luôn lên án những người Giuđa buộc Hội thánh ngoại bang khi tin Chúa Jêsus phải giữ luật pháp là những tiên tri giả. Ma quỉ giả mạo giả Thiên sứ sáng láng, Kẻ giả hình theo ĐẠO LÝ CỦA QUỈ DỬ.( IICôrinhtô 11:12-15;Côlôse 2:18;Itimôthê 4:1-3 ).

 

-           Điều đó bị Phao lô lên án  là mê muội, ếm bùa (Galati 3:1-3), nhờ cậy việc làm của luật pháp để làm cho trọn , tức là lìa bỏ Đấng Christ.

-           Kiêng cử, giữ ngày, tháng, năm là suy phục những lề thói của thế gian , việc tin Chúa trở nên vô ích. (Galati 4:9)

-           Tuân giữ luật pháp trên văn tự là những người con của người nữ tôi mọi (Aga) vì 2 người nữ Aga và Sara đại diện cho 2 giao ước.

Aga là giao ước được lập tại núi Sinai.

SaRa là giao ước được lập trong Chúa Jêsus (Galati 4:21-31).

-            Cậy nhờ luật pháp để trở nên công bình là lìa bỏ Đấng Christ (Galati 5:4).

-            Cựu Ước chỉ là hình bóng chứ không còn thực hiện trên văn tự nữa. Nó chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng, lời tiên tri  và bóng về Chúa Jêsus.(Côlôse 2:16-17)

“Gọi ước đó là mới, thì đã xưng ước trước là cũ; vả, điều chi đã cũ đã già, thì gần tiêu mất đi” (Hêbơrơ 8:13). “Vậy thì Chúa đã bỏ điều trước để lập điều sau” (Hêbơrơ 10:9).

3. Tại sao Chúa Jêsus và Phaolô vẫn thường thờ phượng Chúa vào ngày thứ 7?

 

-           Kinh thánh thường dùng chữ theo thói quen vì Chúa Jêsus và Phaolô đều là người Do Thái. Nhưng đối với Ngài và Phaolô thì ngày nào cũng là ngày của Chúa, ngày Thánh, không phải là ngày thứ 7, thứ 6,... cho nên thờ phượng Chúa trong ngày thứ 7 vẫn là ngày Thánh. Nhưng quan niệm của Chúa Jêsus và Phaolô khác hẳn với những người thông giáo và Pharisi (Giăng 4:20-24). Phaolô gặp người Giuđa thì nhóm thờ phượng Chúa với người Giuđa, còn các Hội thánh ngoại bang thì Phaolô thờ phượng Chúa trong ngày thứ I.

-           Đến nhà hội để thờ phượng trong ngày Sabát – thứ 7 là điều kiện để rao giảng về Chúa Jêsus cho người Giuđa. Vì người Do Thái chỉ tập trung vào ngày thứ 7, Tại nhà Hội Chúa Jêsus đã dùng lời Êsai 61:1 để làm chứng về Ngài (Luca 4:16-19). Phaolô đến ngày Sabát để biện luận giảng về đạo Chúa Jêsus cho người Giuđa (Công vụ 17:2,3; 18:4). Ông đã sống như người Giuđa trong luật pháp để được người Giuđa, và với dân ngoại như người không có luật pháp để được dân ngoại (ICôr 9:19-21).

4. Lên án thờ phượng Chúa trong ngày thứ I là dấu ấn con thú thứ 2 (Khải huyền 13)

Trong sách 60 dữ kiện về ngày Sabát ông Dương Quốc Tùng đã lập luận:

Người giữ ngày thứ I là dấu ấn của con thú thứ 2 trong Khải huyền 13. Còn người giữ ngày thứ 7 là dấu ấn của những người được chuộc.

Đáp: Như vậy, ông Dương Quốc Tùng kết án các môn đồ nhóm lại trong ngày thứ I, Hội thánh đầu tiên nhóm lại trong ngày thứ I là dấu con thú Anti Christ. Lời kết án của ông Dương Quốc Tùng là vô căn cứ. Không chổ nào trong  Khải huyền 13 nói dấu ấn đó là nhóm ngày thứ I cả. Nhưng đây chỉ là lời tiên tri về giáo hội công giáo, bởi các vị giáo hoàng thờ tượng hình và tượng nói tiếng người, đó là tượng Đức mẹ Fatima truyền thông điệp để thờ phượng tượng nữ đồng trinh. Thật sự trong bản văn được truyền đi trong năm 1978. Thông điệp thứ nhất đã ấn ký 666 ở dưới 10 điều thông điệp. Đế quốc La-mã lúc bấy giờ thờ thần mặt trời (đa thần giáo). Nhưng khi Hoàng đế Contantine ăn năn tin nhận Chúa Jêsus thì bỏ bái vật giáo, thờ một Đức Chúa Trời hằng sống , Thờ ba ngôi Thiên  Chúa. Ông đã ra chiếu chỉ truyền toàn đế quốc phải giữ ngày thứ I như các môn đồ của Hội thánh đầu tiên để thờ phượng Chúa, cũng nhớ rằng Hoàng đế và cả đế quốc La-mã thờ Đức Chúa Trời ba ngôi là Đấng tạo hóa chứ không phải thờ thần Mặt trời.

Đó là chương trình của Đức Chúa Trời dùng vị vua La-mã đang cai trị thế giới rộng lớn để làm cho ảnh hưởng của Chúa Jêsus đến một ngôi vị cao nhất.

-                Năm 1 để tính dương lịch liên quan đến sự Giáng sinh của Chúa Jêsus.

-                Ngày thứ I trong tuần lễ là ngày thờ phượng Chúa phục sinh, là Đấng đầu hết trong mọi sự.

-               Ông trưng dẫn Khải huyền 7:3-4 ; 14:1,4,5) dấu ấn được đóng trên những người được chuộc là những người giữ ngày Sabát, là ấn của Đức Chúa Trời, điều này hoàn toàn sai với lẽ thật. Vì kinh thánh chép rằng: “cho đến chừng nào chúng ta sẽ đóng ấn trên trán những tôi tớ Đức Chúa Trời chúng ta” “Danh Cha, chiên con ghi trên trán”. Đóng ấn cho những người được chuộc là chính Đức Thánh Linh. “Chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời vì nhờ Ngài mà anh em được ấn chứng cho đến ngày được cứu chuộc” (Êphêsô 4:30). Làm buồn cho Đức Thánh Linh không phải bỏ ngày thứ 7, nhưng sống một đời sống trong xác thịt tội lỗi. Ngay cả giữ luật pháp là hành động loại trừ, làm buồn lòng Đức Thánh Linh (Galati 3:3-5). Đã bị Phao lô lên án là tà giáo, ngu muội, bùa ếm... “Trong Ngài anh em đã tin và được ấn chứng bởi Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ đã chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để khen ngợi sự vinh hiển của Ngài” (Êphêsô 1:13,14).

 

5 -  Bỏ ngày thứ 7 là bỏ điều răn thứ 4:

Điều nầy hoàn toàn không đúng, vì Cơ đốc giáo vẫn có ngày Sabát. Nhưng ngày Sabát của Chúa Jêsus có giá trị cao hơn ngày Sabát thứ 7 của Cựu Ước vì Chúa Jêsus phán rằng: “Con Người là Chúa của ngày Sabát ” (Mathiơ 12:8). Ngày Sabát trong Tân Ước làthời kỳ yên nghỉ trong Chúa Jesus mà đánh dấu cho ngày Chúa phục sinh là ngày thứ I trong tuần lễ.

Hội thánh vẫn có điều răn thứ 4 nhưng không còn là Sabát - thứ7 ( sự chết) mà là Sabát thứ I (sự Sống). Kinh Thánh có chép sẽ có một ngày khác nữa, vậy thì còn một ngày yên nghỉ cho dân Đức Chúa Trời, đó là NGÀY PHỤC SINH, yên nghỉ trong sự sống phục sinh của Chúa Jêsus.

-          Chúa là số 1 của con chứ không phải là cuối.

-          Chúa trước hết chứ không phải vật chất, tiền,

thế gian trước.

-          Thờ một Chúa là Đấng sống chứ không phải Chúa chết.

( tìm Chúa trong ngày thứ 7 là tìm Chúa CHẾT).

-          Chúa là Đấng mọi sự trong mọi sự chứ không phải chỉ

là 1 ngày cuối trong tuần.

-          Bước vào ngày thứ I là bước vào một GIAO ƯỚC MỚI. Bước vào một thời kỳ yên nghỉ ( Sabát) trong Chúa Jêsus.

Halêlugia. Sự sống phục sinh là biểu lộ cho quyền năng của giao ước mới. AMEN.

 

6 – NHỮNG BIỆN LUẬN ĐỂ BÁT BỎ NGÀY THỨ NHẤT:

Trong cuốn “lẽ thật ngày Sabát” của DQT.

a –  (Trong sách “Lẽ thật ngày Sa bát” trang 162) ông Dương Quốc Tùng  trưng dẫn 6 câu Kinh thánh Mathiơ 28:1; Mác 16:1,2 ; 16:9 ; Luca 24:1 ; Giăng 20:1. Nói về những người đàn bà đi xức xác cho Chúa và ông nói rằng không chổ nào nói ngày thứ I là ngày Thánh. Ông phải nhớ rằng các người đàn bà đó đang đi tìm Chúa trong MỒ. KHÔNG CÓ CHÚA. Chúa không phải là một xác chết của ngày hôm qua.

NGÀY THỨ 7. Nhưng nơi nào có sự hiện diện của Chúa là nơi THÁNH. Kinh thánh chép:  “Nội chiều ngày đó, LÀ NGÀY THỨ NHẤT TRONG TUẦN LỄ, nơi các môn đồ ở, CHÚA JÊSUS ĐẾN ĐỨNG CHÍNH GIỮA HỌ MÀ PHÁN RẰNG: BÌNH AN CHO CÁC NGƯƠI” (Giăng 20:19). Giá trị là CÓ SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA.  Ông DQT. còn dùng chữ ‘Môn Đồ họp lại để ĂN MỪNG CHÚA PHỤC SINH’ như châm biếm những người ủng hộ ngày thứ I là ngày các môn đồ họp lại để ĂN MỪNG. Nhưng rõ ràng Kinh thánh không ghi chữ Ăn Mừng vì lúc này các môn đồ ĐANG SỢ, đó là tâm trạng của các môn đồ  Kinh Thánh ghi rõ ai cũng biết. Nhưng đó là tâm trạng của họ trước khi Chúa hiện đến. Ông DQT dừng lại ở đó để nói rằng ngày thứ nhất không phải là ngày thánh. Ông nói “Họ họp nhau không phải để thờ phượng, nếu họ họp lại để thờ phượng thì họ vào nhà hội...” Nhưng Chúng ta nên nhớ rằng, KHI CHÚA JÊSUS HIỆN RA THÌ CÁC MÔN ĐỒ ĐẦY SỰ VUI MỪNG. Khi Ma-ri thấy Chúa sống vào sáng ngày thứ I  thì “…ĐẾN GẦN, ÔM CHÂN NGÀI VÀ THỜ LẠY NGÀI” (Mat.28:9). Khi Chúa hiện ra với các môn đồ lần đầu tiên thì Kinh Thánh chép: “ KHI MÔN ĐỒ THẤY NGÀI THÌ THỜ LẠY NGÀI.  Như vậy rõ ràng, khi Chúa Phục Sinh hiện đến thì các Môn Đồ ĐẦY VUI MỪNG VÀ THỜ LẠY NGÀI. Thờ phượng Chúa trong NGÀY THỨ NHẤT, thờ phượng Chúa là ngày Thánh, vì Chúa Jêsus là CHÚA CỦA NGÀY SA BÁT.

b -  Ông DQT cho rằng Phao lô nói với HT Cô-rinh-tô CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN Không phải là ngày thờ phượng nhưng là ngày bắt đầu dành tiền dâng hiến. (trang 165 LT ngày SB)

Chúng ta xem lại mạch văn “CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN LỄ, Mỗi người trong anh em khá tùy sức mình chắc lót được bao nhiều thì để dành tại nhà mình, HẦU CHO KHỎI ĐỢI TÔI ĐẾN RỒI MỚI GÓP” (I Côr. 16:2). Mội bản dịch mới khác do nhóm phiên dịch thế giới. Bản dịch sát nhất với nguyên ngữ Hy-lạp “Vào ngày đầu tuần, mỗi anh chị em dành riêng ra một số tiền tùy khả năng. Làm như thế thì không cần phải đợi tôi đến rồi mới thu góp”. Điều này có ý nghĩ là CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN  LÀ DÂNG HIẾN, CHỨ KHÔNG ĐỢI PHAO-LÔ ĐẾN RỒI MỚI DÂNG HIẾN. Và đây không phải là cách làm chỉ của Hội Thánh Cô-rinh-tô mà là của tất cả các Hội Thánh miền Ga-li-lê. Tất nhiên ai cũng biết rằng, từ trước đến nay, ngay cả Cựu Ước sự dâng hiến đều thực hiện lúc HỘI THÁNH NHÓM LẠI.

c – Buổi nhóm ngày thứ I tại Hội thánh Trô-ách ông Dương Quốc Tùng nói rằng: “Mục đích của buổi nhóm này không phải để ĂN MỪNG SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA JÊSUS như một số người thường nói...Đây là buổi nhóm họp để chia tay???.

-   Qua những lời trên chứng tỏ Ông DQT. luôn bài xích về sự VUI MỪNG VỀ MỘT CHÚA PHỤC SINH. Phải biết rằng đời sống cơ Đốc Nhân lúc nào cũng phải VUI MỪNG, VUI MỪNG MÃI MÃI (IITê 5:16,17). Vì sự hiện diện thường trú của Chúa Phục Sinh trong đời sống của Cơ Đốc Nhân.

-    Buổi nhóm này là buổi nhóm để THỜ PHƯỢNG CHÚA. Lẽ tất nhiên, Phao-lô muốn ở lại với Hội Thánh Trô-ách để nhóm với Hội Thánh trong ngày Chúa Nhật (ngày thứ I) rồi thứ 2 (ngày mai) ông sẽ ra đi. “Ngày thứ nhất trong tuần lễ, chúng ta đang nhóm lại để bẻ bánh; Phao-lô phải đi ngày mai, nên người nói chuyện, cứ GIẢNG luôn cho đến nữa đêm....GIẢNG LUẬN cho đến sáng”(Công vụ.20:7-12). Như vậy buổi nhóm thờ phượng Chúa  có LỄ BẺ BÁNH, CÓ GIẢNG LUẬN, cũng có nghỉ một lúc để nói chuyện (thông công).

 

-   Ông DQT còn nói rằng: Tối thứ 7 hay sáng Chúa Nhật? Ông lý luận rằng: “Buổi nhóm chưa chắc diễn ra vào sáng Chúa nhật .... một ngày bắt đầu từ ban đêm và ban ngày sau... như vậy, thực ra là vào tốt thứ 7, vì kinh thánh ghi: “có nhiều đèn trong phòng cao mà chúng ta đương nhóm lại” !? Như vậy, Ông DQT nên gạch bỏ chữ NGÀY THỨ NHẤT TRONG TUẦN LỄ trong Kinh Thánh, có lẽ ông ước rằng đừng có câu này thì dễ nói là ngày thứ 7 hơn. Dầu vậy, ông vẫn cứ nói khi ông trưng dẫn có nhiều đèn trên phòng cao...?!  Phải nhớ là NGÀY thứ nhất, chứ không phải tối ngày thứ 7. Rồi gì nữa: cứ giảng luôn CHO ĐẾN NỮA ĐÊM. Thời gian từ ban ngày cho đến ban đêm, cũng có nghỉ thông công (nói chuyện). Chính vì vậy mới có đèn nhiều để soi sáng vào tối chúa nhật chứ. Như vậy ông DQT thần tượng ngày thứ 7 cho nên muốn SỬA KINH THÁNH.

Chúng ta cũng hiểu rằng: có những người không bao giờ tin sự yên nghỉ trong Chúa Phục Sinh cho nên họ dùng những lý luận để bác bỏ. Họ sẽ không bao giờ ĂN NĂN, đúng như Hêb. 4:3-7 Chúa phán: “Chúng nó sẽ chẳng hề vào sự yên nghỉ Ta!...”  “.. Vì những kẻ nghe Tin lành ấy trước nhất đã không vào đó, BỞI CHẲNG TIN.”    

 

Chúng ta hãy cầu nguyện và nhờ Đức Thánh Linh giảng giải cho người Cơ Đốc Phục Lâm hiểu rõ ý nghĩa Sabát trong Chúa Jêsus phục sinh để họ bước vào trong quyền năng của Đức Thánh Linh. Không còn cậy việc làm của xác thịt, họ nhận được sự cứu rỗi trọn vẹn trong Chúa Jêsus, để họ tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Chúa Jêsus. AMEN.

 

MS. PHẠM TOÀN ÁI


 

 

 

CHỨNG NHÂN GIÊHÔVA

CHỨNG NHÂN  GIÊHÔVA ( Tà Thuyết)

I -   KHÔNG TIN PHẨM VỊ THẦN TÁNH CỦA JESUS CHRIST

Chứng nhân GiêHô Va nói:

“Jesus không bao giờ là Đức Chúa Trời. Ngài chỉ là con Đức Chúa Trời . Ngay cả sau khi Ngài chết được sống lại và lên trời,Giê Xu vẫn không ngang hàng với Cha Ngài”

“ Đức Chúa Trời toàn năng và Giê Xu rõ ràng là hai nhân vật khác nhau”.

“ Ngôi lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi lời có bản tánh giống Đức Chúa Trời “ (Giăng 1:1 NW) . Giê Xu là Đấng quyền năng,Giê Xu không phải là Đấng Toàn năng “

"Giêxu là tạo vật đầu tiên của Đức Chúa Trời".

"Giêxu đã là một người đàn ông hoàn toàn, y như Ađam trước khi chưa phạm tội. Giêxu là một người hoàn toàn ngang hàng với Ađam".

"Ngài là con "Đầu Lòng" và "Con Một" của Đức Chúa Trời, nghĩa là đuợc Ngài tạo ra trước hết".

(trích Sách "Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất" chương 4:15, chương 6:16 và 6:5).

"Đấng Christ chẳng bao giờ và sẽ chẳng bao giờ là Đức Chúa Trời" (Rutherford).

 

---> LUẬN CHỨNG TỪ KINH THÁNH

1. CHÚA GIÊXU ĐƯỢC GỌI LÀ CON MỘT:

Ngay từ khi Ađam, Êva phạm tội, Đức Chúa Trời liền có một chương trình để cứu chuộc con người. Để thỏa mãn Luật Công Bình, Ngài lấy lòng yêu thương tự hạ mình xuống mặc thân xác loài người, để gánh

chịu hậu quả của tội lỗi chết thế cho con người trên thập tự giá, vì "không có sự đổ huyết thì không có sự tha thứ" (Hêb 9:22).

Chính vì vậy, Ngài phải có một thân thể giống như loài người, Ngài phải giáng xuống bằng con đường giống như con người. Sinh ra bởi người nữ đồng trinh Mari, được gọi tên là Giêxu.

Chính vì trở nên con người cho nên Đức Chúa Giêxu được gọi là Con Một của Đức Chúa Trời (Giăng 3:16).

- Như vậy đối với Đức Chúa Trời, Đức Chúa Giêxu là Con Một, Con Độc Nhất được hoài thai bởi Đức Thánh Linh.

"Đức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Đấng Rất Cao sẽ che phủ ngươi dưới bóng mình, cho nên con Thánh sanh ra, phải xưng là Con Đức Chúa Trời" (Luca 1:35).

- Nhưng đối với Mari thì Ngài là Con Đầu Lòng, vì sau này Mari vẫn còn có những con khác (Mathiơ 13:55).

"Người (Mari) sanh con trai ĐẦU LÒNG (Luca 2:7), Chứng Nhân Giêhôva nói "Giêxu là con đầu lòng của Đức Chúa Trời nghĩa là Ngài là tạo vật đầu tiên" trước Ađam. Điều đó chứng tỏ họ đã bóp méo Lẽ Thật và trở nên mâu thuẫn vì nếu Giêxu được tạo trước Ađam, giống Ađam hoàn toàn thì không thể gọi là Con Một hoặc Con Độc Nhất.

2. VỀ PHƯƠNG DIỆN THẦN TÁNH CHÚA GIÊXU LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI

Kinh Thánh dạy và xác nhận Thần Tánh của Chúa Giêxu rất rõ ràng :

- Lời phán dự ngôn trong Cựu Ước :

Æ a. "Vì sẽ có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài".

Æ b. “Ngài sẽ được xưng là ĐẤNG LẠ LÙNG, là ĐẤNG MƯU LUẬN, là ĐỨC CHÚA TRỜI QUYỀN NĂNG, là CHA ĐỜI ĐỜI, là CHÚA BÌNH AN" (Êsai 9:5).

Qua câu Kinh Thánh trên bày tỏ cho chúng ta biết Chúa Giêxu có Nhân Tánh ở phần a và Thần Tánh ở phần b.

Ngài là Đức Chúa Trời quyền năng, là Cha đời đời, là Chúa bình an.

Trong cuốn "Sự hiểu biết dẫn đến sự sống đời đời" ở mục "Một số lời tiên tri đặc biệt về Đấng Mêsi" (trang 37), Chứng Nhân Giêhôva không dám trưng dẫn câu Kinh Thánh trên. Họ cố để cho người đọc không nhận thấy tà thuyết của họ, hầu phủ nhận Thần Tánh của Chúa Giêxu.

- Lời Kinh Thánh trong Tân Ước:

"Ngài vốn có HÌNH ĐỨC CHÚA TRỜI, song chẳng coi sự BÌNH ĐẲNG MÌNH VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI là sự nên nắm giữ. Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người" (Philíp 2:6-7)

Lời Kinh Thánh trên cho ta biết Thần Tánh ở phần a và Nhân Tánh ở phần b.

- Ngôi Lời là Đức Chúa Trời (Giăng 1:1) :

Chứng Nhân Giêhôva muốn chối bỏ Thần Tánh của Chúa Giêxu, họ không công nhận Chúa Giêxu là Đức Chúa Trời, cho nên họ cố biện luận rằng: "Căn cứ vào câu 2 "Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời", chữ "ở cùng" thì không thể là chữ "LÀ", nên phải dịch "... Ngôi Lời có bản tánh giống như Đức Chúa Trời" (bản dịch NW).

Chúng ta hãy trở về với nguyên bản cổ ngữ Hy Lạp viết câu này như sau :

 

QEOS     nv    O lOgOS (THEÓS   EN   AU   LOGÓS)

 

Vì từ  "   lOgOS" có định quán từ "O" đứng trước được gọi là chủ từ. Chữ  “nv" là ngôi thứ ba số ít của động từ là "EI" ở thì bán khứ, cho nên câu này phải dịch là: "NGÔI LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI".

Trong bản dịch Anh ngữ Kings James Version ghi câu này như sau:     "WORD WAS GOD"

Rõ ràng câu này phải dịch là "Ngôi Lời là Đức Chúa Trời"

 

- Danh xưng của Đức Chúa Giêxu là Đức Chúa Trời:

Hêb 1:8 "Nhưng nói về Con thì lại phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia".

Khải huyền 1:8 "CHÚA (chỉ về Chúa Giêxu) là Đức Chúa Trời, Đấng hiện có, đã có và còn đến, là Đấng toàn năng, phán rằng: Ta là Anpha và Ômêga".

Qua những câu Kinh Thánh trên xác nhận rõ ràng Chúa Giêxu là Đức Chúa Trời ĐỜI ĐỜI, ĐẤNG TOÀN NĂNG. Đấng đầu tiên và cuối cùng, tức là trước Ngài không có ai và sau Ngài cũng không có ai.

- Chính Chúa Giêxu tuyên bố:

Æ Giăng 10:30 "Ta với Cha là một".

Æ Giăng 14:9 "Ai đã thấy Ta tức là đã thấy Cha".

Æ Giăng 12:45 "Còn ai thấy Ta, là thấy Đấng đã  sai Ta đến".

Æ Giăng 14:10 "Ngươi há không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, hay sao?".

 

3.CHÚA GIÊXU LÀ ĐẤNG TẠO HÓA

Kinh Thánh xác nhận rõ ràng Chúa Giêxu là Đấng Tạo Hóa chứ không phải là tạo vật đầu tiên của Đức Chúa Trời như tà thuyết Chứng Nhân Giêhôva. Chúng ta hãy xem lời Chúa:

Giăng 1:3 "Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài".

Giăng 1:10 "Chúa Cứu Thế đã đến thăm thế giới do chính Ngài sáng tạo" (B.DY).

Côlôse 1:16 "Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được ... đều là BỞI NGÀI và vì Ngài mà được dựng nên cả".

 

4. CHÚA GIÊXU LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI TOÀN NĂNG:

 

Chúa Giêxu phán rằng: "Khi Ta nói rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, thì hãy tin Ta; bằng chẳng, hãy tin bởi công việc Ta" (Giăng 14:11).

Như vậy chính công việc của Chúa Giêxu bày tỏ chính Ngài là Đức Chúa Trời toàn năng.

Æ Ngài khiến kẻ chết sống lại (Giăng 11:43; Luca 8:33-35).

Æ Ngài có quyền trên thiên nhiên (Mác 4:39; 6:48-50).

Æ Ngài có quyền trên bệnh tật (Mác 6:54-56).

Æ Ngài có quyền tha tội (Mác 9:6).

Æ Ngài biết lòng và tư tưởng của loài người (Giăng 2:25; 24:17).

 

5. CHÚA GIÊXU Y NHƯ GIÊHÔVA CỦA CỰU ƯỚC

 

a. Giêhôva Đấng Sáng Tạo Êsai 43:1,7,15.

Chúa Giêxu cũng vậy,

Muôn vật bởi Ngài làm nên Giăng 1:3,10.

b. Giêhôva là Cứu Chúa duy nhất Êsai 43:11.

Chúa Giêxu cũng vậy Công vụ 4:12.

c. Giêhôva là Đấng đầu tiên và cuối cùng Êsai 44:6.

Chúa Giêxu phán: "Ta là Anpha và Ômega" (Khải huyền 1:8,17-18.)

d. Giêhôva là Đức Chúa Trời Êsai 43:12b.

Chúa Giêxu cũng vậy Giăng 1:1; Rôma 9:5.

e. Giêhôva là Đấng Chăn Chiên Thi thiên 23:1.

Chúa Giêxu cũng vậy, Chúa Giêxu phán: "Ta là người chăn hiền lành" Giăng 10:11.

f. Giêhôva là Đấng chữa bệnh Xuất 15:26.

Chúa Giêxu cũng vậy Mác 6:54-55.

g. Giêhôva kêu gọi ta làm chứng nhân cho Ngài

Êsai 43:10,12.

Chúa Giêxu cũng kêu gọi chúng ta làm chứng nhân

cho Ngài Giăng 15:27; Công vụ 1:8

h.Giêhôva là Vua  Êsai 4:6a

Chúa Giêxu cũng là Vua trên muôn vua, Chúa trên

muôn Chúa  Khải Huyền 17:14, Mathiơ 2:2 ; 27:37

Rõ ràng Chúa Giêxu là hiện thân của Giêhôva Đức Chúa Trời trên đất (Êsai 4:3-5 ; Mác 1:1-3)

Chúng ta phải tôn cao Danh Giêxu như tôn cao Danh Giêhôva, vì chính Ngài cũng là Giêhôva Đức Chúa Trời.

Đức Thánh Linh được ban xuống để giúp chúng ta làm sáng danh Đức Chúa Giêxu (Giăng 16:14a). Và chính Ngài giúp chúng ta làm chứng cho Chúa Giêxu.

"... Ấy chính Ngài sẽ làm chứng về Ta còn các ngươi cũng sẽ LÀM CHỨNG VỀ TA ...".

"Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền năng và LÀM CHỨNG VỀ TA tại thành Giêrusalem, cả xứ Giuđa, xứ Samari, cho đến cùng trái đất" (Công vụ 1:8; Giăng 15:27).

6. PHẢI TÔN XƯNG JÊSUS LÀ CHÚA

Chứng Nhân Giêhôva không bao giờ xưng Chúa Giêxu là Chúa, mọi sách của Chứng Nhân Giêhôva chỉ viết là Giêxu mà thôi.

Chúng ta hãy xem Kinh Thánh:

Æ I.Phierơ 3:15 "Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm Thánh trong lòng mình".

Æ I.Côrinhtô 1:2; Galati 1:3; I.Têsalônica "Cầu khẩn danh Đức Chúa Giêxu Christ chúng ta, là Chúa của những người ấy và của chúng ta".

Æ Philíp 2:10,11 "Hầu cho nghe Danh Đức Chúa Giêxu, mọi đầu gối trên trời,dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống và mọi lưỡi thảy đều xưng Giêxu Christ là CHÚA".

Rõ ràng Chứng Nhân Giêhôva cố tình hạ thấp Danh Chúa Giêxu là Danh trên hết mọi danh. Họ chỉ xem Chúa Giêxu là con người bình thường như Ađam. Họ không muốn làm sáng Danh Ngài, chứng tỏ họ không có Đức Thánh Linh vì Kinh Thánh chép rằng:

"Nếu không cảm Đức Thánh Linh, cũng chẳng ai xưng Đức Chúa Giêxu là CHÚA" (I.Côrinhtô 12:3).

Nếu những người Chứng Nhân Giêhôva sống đồng thời với Chúa Giêxu khi nghe Ngài chứng minh chính Ngài là Đức Chúa Trời thì chắc họ hòa đồng với Do Thái giáo lên án Chúa là lộng ngôn, họ sẽ rủa sã Ngài và chắc cũng giết Ngài trên thập tự giá.

 

II -   KHÔNG TIN SỰ SỐNG LẠI THÂN THỂ CỦA CHÚA GIÊXU

 

Chứng Nhân Giêhôva nói:

"Có nhiều người tin rằng Đấng Christ đã mang theo thân thể xác thịt của Ngài lên Trời.... Họ nêu ra những sự kiện là khi Đấng Christ được sống lại từ kẻ chết, thân thể Ngài không còn nữa.

Giêxu đã hiện ra cùng các môn đồ của Ngài với một thân thể ... bảo sứ đồ Thôma đặt tay vào lổ thủng ở bên hông Ngài. Liệu đây không phải là bằng chứng Giêxu đã được sống lại với cùng một thân thể mà Ngài đã có hay sao ?

KHÔNG ĐÂU! Giêxu không sống lại bằng một thân thể đó. Giêxu chỉ biến dạng hay là mặc hình người giống như thiên sứ để thuyết phục Thôma mà thôi.

Tại sao có ngôi mộ trống ? Bởi vì Đức Chúa Trời đã làm biến mất xác chết của Giêxu.

Ngài lên trời với một thân thể thiêng liêng thế thì Ngài cũng trở lại bằng một thân thể thiêng liêng, mắt không thấy được”.

(Sách: Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất, chương 17:3-12).

 

LUẬN CHỨNG TỪ KINH THÁNH

 

Nếu nói như Chứng Nhân Giêhôva, Đức Chúa Trời làm biến mất xác của Chúa Giêxu để mọi người tin Chúa sống lại khi thấy ngôi mộ trống thì rõ ràng Chứng Nhân Giêhôva cho Đức Chúa Trời là kẻ lừa bịp, dối trá sao ? Không bao giờ có điều đó. Chỉ có Chứng Nhân Giêhôva mới là người làm chứng dối như vậy.

Chúng ta hãy xem Kinh Thánh chứng quyết rằng Đức Chúa Trời chúng tôi tin cậy là Đức Chúa Trời chân thật. Ngài tôn trọng sự thật nhưng rủa sã, trừng phạt những kẻ dối trá.

Thi thiên 31:5 " Hỡi Giêhôva, là Đức Chúa Trời chơn thật, Ngài đã chuộc tôi".

Thi thiên 5:6a "Chúa sẽ hủy-diệt các kẻ nói dối".

Châm ngôn 12:22 "Môi miệng nói dối giả lấy làm gớm ghiếc cho Đức Giêhôva".

1. Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Giêxu từ kẻ chết sống lại:

Công 2:24 " Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại, bứt đứt dây trói của sự chết, vì nó không thể  giữ Người lại dưới quyền nó".

Công 2:32 "Đức Chúa Giêxu nầy, Đức Chúa Trời đã khiến sống lại..."

Công 10:40 "Nhưng ngày thứ ba, Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại, lại cho Ngài được tỏ ra".

Galati 1:1b "Đức Chúa Trời, tức là Cha, Đấng đã khiến Ngài TỪ KẺ CHẾT SỐNG LẠI".

Câu "khiến Ngài từ kẻ chết sống lại" rõ ràng Đức Chúa Trời đã khiến Đức Chúa Giêxu sống lại từ một thân thể đã chết đó và được biến hóa để không hề chết.

Giống như Chúa Giêxu đã kêu Laxarơ sống lại sau khi ông đã chết nằm trong mồ bốn ngày, có mùi hôi. Như vậy Laxarơ đã sống lại từ một thân thể đó nhưng chưa được biến hóa, vì điều này Ngài thực hiện cho con người khi Đức Chúa Giêxu tái lâm (Philíp 3:21).

Chúa Giêxu được sống lại từ một thân thể đó và được biến hóa để thân xác được sống đời đời. Cho nên, Ngài đã trở nên "Trái đầu mùa của những kẻ ngủ", "Ngài là ban đầu, sanh trước nhất từ trong những kẻ chết" (Côlôse 1:18).

2. Chính Đức Chúa Giêxu đã chứng minh sự sống lại của chính thân thể của Ngài

Chúng ta hãy xem Kinh Thánh:

Luca 24:37-43 "Khi các môn đồ thấy Chúa tưởng THẦN thì Chúa phán rằng: "Hãy xem tay chơn Ta: THẬT CHÍNH TA. Hãy rờ đến ta và hãy xem; THẦN thì không có thịt xương mà các ngươi thấy ta có..."

"Ngài nhận lấy mà ăn trước mặt các môn đồ..."

Giăng 20:27 "Ngài phán cùng Thôma rằng: "Hãy đặt ngón tay ngươi vào đây, và hãy xem bàn tay Ta; cũng hãy giơ bàn tay ngươi ra và đặt vào sườn ta, chớ cứng lòng, song hãy tin!".

Công vụ 1:3 "Sau khi chịu đau đớn rồi, thì trước mặt các sứ đồ Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các môn đồ trong bốn mươi ngày".

Những bằng chứng trên đây chứng minh Chúa Giêxu thật sự sống lại từ một thân thể của Ngài đã chết vẫn có xương có thịt. Nếu nói như Chứng Nhân Giêhôva Giêxu không sống lại bằng thân thể đó, chỉ hiện ra để thuyết phục Thôma tin. Nhưng thực sự Chúa Giêxu không có xương không có thịt, thì rõ ràng tà thuyết Chứng Nhân Giêhôva đã cho Chúa Giêxu là người lừa bịp, nói dối với Thôma và các môn đồ chăng ? Không ! Không bao giờ vì chính Chúa Giêxu không bao giờ nói dối.

I.Phierơ 2:22 "Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chi dối trá".

Chứng Nhân Giêhôva nói Chúa sống lại, thăng thiên và tái lâm bằng một thân thể thiêng liêng mắt không thấy được, là hoàn toàn sai với những sự kiện mà Kinh Thánh ghi lại:

Công vụ 1:9,11 "Ngài được cất lên trong lúc các người đó NHÌN XEM NGÀI. Giêxu này đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi THẤY NGÀI lên trời vậy".

Khải huyền 1:7 "Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, MỌI MẮT sẽ TRÔNG THẤY, cả đến những kẻ đã đâm Ngài cũng TRÔNG THẤY".

Như vậy, Chúa Giêxu đã sống lại thân thể đó mà mọi mắt đều trong thấy Ngài, giữa Kinh Thánh và Chứng Nhân Giêhôva ai là kẻ nói dối ? Rõ ràng là Kinh Thánh là Lẽ Thật. Chính Chứng Nhân Giêhôva đã nói dối để dạy tà thuyết. Kinh Thánh đã kết án như sau:

"Ai là kẻ nói dối, há chẳng phải kẻ chối bỏ Đức Chúa Giêxu là Đấng Christ sao? Ấy đó là kẻ địch lại Đấng Christ, tức là kẻ nói chối Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con!" (I.Giăng 2:22).

 

 

III -  KHÔNG TIN ĐỨC THÁNH LINH CÓ THÂN VỊ

 

Chứng Nhân Giêhôva nói:

Về phần "Đức Thánh Linh”, cái mà người ta gọi là ngôi ba trong thuyết Ba ngôi, chúng ta thấy rằng đây không phải là nhân vật, nhưng chỉ là “Sinh hoạt lực của Đức Chúa Trời". "Nếu có một nhân vật Thánh Linh thì làm sao cùng một lúc đầy dẫy trên 120 môn đồ ? Không đâu ! Song họ đã đầy dẫy sinh hoạt lực của Đức Chúa Trời".

(Sách Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất, chương 4:7)

 

LUẬN CHỨNG TỪ KINH THÁNH

Kinh Thánh không nói Đức Thánh Linh là một người có thân thể, không phải là một nhân vật như Chứng Nhân Giêhôva đã nói. Nhưng Kinh Thánh xác định rõ Đức Thánh Linh là Thần Linh. Thần Linh tức là không có hình thể, không hạn chế trong vật chất hữu hạn. Ngay cả từ ngữ Đức Thánh Linh, chúng ta cũng hiểu được Ngài là Đấng Thần Linh mắt không thấy được, như sự hiện hữu của Ngài khắp vũ trụ. Ngài cùng một lúc đầy dẫy trên mọi người.

1. Đức Thánh Linh là một thân vị:

Danh xưng Ngài được gọi là:

a. Đấng Yên Ủi

Giăng 14:16 "Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên Ủi khác, để ở với các ngươi đời đời".

b. THẦN LẼ THẬT

Giăng 14:17 "Tức là THẦN LẼ THẬT, mà thế gian không thể nhận lãnh được..."

c. CHÚA GIÊXU GỌI ĐỨC THÁNH LINH

LÀ NGÀI

Giăng 15:26 "... Ấy chính Ngài sẽ làm chứng về Ta", "Khi Ngài đến thì sẽ khiến ..."

Giăng 16:13 "Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi Lẽ Thật".

d. ĐỨC THÁNH LINH PHÁN

Luca 2:26 "Đức Thánh Linh đã bảo trước cho người biết mình sẽ không chết trước khi thấy Đấng Christ của Chúa"

Công vụ 13:2 "Đương khi môn đồ thờ phượng Chúa và kiêng ăn, thì Đức Thánh Linh phán rằng ..."

Công vụ 16:6 "Vì Đức Thánh Linh đã CẤM truyền đạo trong cõi Asi".

e. ĐỨC THÁNH LINH DẪN DẮT

Rôma 8:14 "Vì hết thảy kẻ nào được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dắt dẫn, đều là Con của Đức Chúa Trời".

f. ĐỨC THÁNH LINH LÀM CHỨNG

Rôma 8:16 "Chính Đức Thánh Linh LÀM CHỨNG cho lòng chúng ta ..."

g. ĐỨC THÁNH LINH CẦU THAY

Rôma 8:26 "Nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà CẦU KHẨN thay cho chúng ta".

h.ĐỨC THÁNH LINH BIẾT BUỒN

Êphêsô 4:30 "Anh em chớ làm BUỒN cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời"

Rõ ràng,những danh xưng và công việc của Đức Thánh Linh chứng minh Ngài có một thân vị riêng biệt chứ không phải là “sinh hoạt lực” của Đức Chúa Trời như chứng nhân GiêHôVa nói.

 

2. Đức Thánh Linh bình đẳng với Đức Chúa Trời :

Đức Thánh Linh có phẩm vị riêng biệt nhưng kinh thánh nói Ngài bình đẳng với Đức Chúa Trời.

Esai 48:16 “Chúa Giê Hô Va và Thần của Ngài sai

Ta đến”

-          Đức Thánh Linh là Giê Hô Va.

Công vụ 5:3,4 “ Hỡi Anania,sao qủi Satan đã đầy dẫy trong lòng ngươi đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh Linh…Ay chẳng phải ngươi nói dối với loài người bèn là nói dối Đức Chúa Trời “

- Đức Thánh Linh là Giêhôva.

Hêbơrơ 3:7,8 "Cho nên, như Đức Thánh Linh phán rằng: Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Ngài, thì chớ cứng lòng, như lúc nổi loạn, là ngày thử CHÚA trong đồng vắng".

Thử Chúa trong đồng vắng, trong Cựu Ước gọi là Giêhôva.

Xuất 17:7b "Họ đã ướm thử ĐỨC GIÊHÔVA mà nói rằng có ĐỨC GIÊHÔVA ở giữa chúng ta chăng?".

3. Đức Thánh Linh là Đấng Thần Linh:

Chứng Nhân Giêhô nghi ngờ rằng "Nếu có một nhân vật Thánh Linh thì làm sao cùng một lúc đầy dẫy trên 120 môn đồ? Họ được đầy dẫy một người sao?"

Căn cứ lời nói trên chứng tỏ sự hiểu biết của Chứng Nhân Giêhôva quá nông cạn, đã được xưng là Đức Thánh Linh thì đâu có thân xác như loài người bằng xương thịt, vì Ngài là Thần Linh.

 

Kinh Thánh chép:

Thi thiên 139:7-10 "Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa ? Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, ví tôi nằm dưới âm phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó ...".

Đức Thánh Linh đến với một thân vị Thần Linh, như sức gió thổi ào ào. Ngài biểu hiện qua hình ảnh của Lửa đậu trên mỗi người. Chính Đức Thánh Linh được ban xuống để khai sinh Hội Thánh và lãnh đạo Hội Thánh, ban sức mạnh cho Hội Thánh để rao giảng Tin Lành cho đến ngày tận thế.

 

4. Tội xúc phạm đến Đức Thánh Linh

Chứng Nhân Giêhôva đã gọi Đức Thánh Linh là "CÁI mà người ta là ngôi ba". Họ coi thường, xem Đức Thánh Linh không là gì cả, chỉ là sinh hoạt lực của Đức Chúa Trời mà thôi. Họ đã nói phạm đến Đức Thánh Linh.

Kinh Thánh chép rõ:

Mathiơ 12:31 "Ta phán cùng các ngươi, các tội lỗi và lời phạm thượng của người ta đều sẽ được tha; song lời phạm thượng đến Đúc Thánh Linh thì sẽ chẳng được tha đâu".

Mathiơ 12:32 "... Song nếu ai nói phạm đến Đức Thánh Linh, thì dầu đời này hay đời sau cũng sẽ chẳng được tha".

Chứng Nhân Giêhôva đã cố tình bóp méo Lẽ Thật để theo ý mình, cắt xén, lắp ráp, đoạn chương chủ nghĩa, sửa đổi Kinh Thánh theo ý mình một cách tự nhiên để lừa dối người khác. Chúng ta biết Chúa phán rằng:

II.Phierơ 1:20,21 "Phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được ... Nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời".

Cho nên ai sửa Kinh Thánh, thêm, bớt vào lời Chúa là xúc phạm đến Đức Thánh Linh.

Khải huyền 22:18-19 "... Nếu ai thêm vào sách Tiên Tri này điều gì, thì Đức Chúa Trời sẽ thêm cho người ấy tai nạn đã ghi chép trong sách này. Và kẻ nào bớt điều gì trong những lời ở sách Tiên Tri này thì Đức Chúa Trời sẽ cất lấy phần họ về cây Sự Sống và Thành Thánh mà đã chép trong sách này".

IV - KHÔNG TIN ĐỨC CHÚA TRỜI             BA NGÔI

 

Chứng Nhân Giêhôva nói:

"Danh từ "Chúa Ba Ngôi" không hề có ghi trong Kinh Thánh".

"Đức Thánh Linh, cái mà người ta gọi là Ngôi Ba trong thuyết Ba Ngôi không phải là một điều Kinh Thánh dạy".

"Thuyết Ba Ngôi là bắt chước sự thờ phượng của những dân tộc cổ như Êdíptô, Babylôn thờ nhiều nhóm ba Thần”.

Đối với Chứng Nhân Giêhôva chỉ có Giêhôva là Đức Chúa Trời, Giêxu chỉ là con người giống như Ađam. Thánh Linh là sinh hoạt lực của Đức Chúa Trời.

(Sách: Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất, chương 4:14,17)

 

LUẬN CHỨNG TỪ KINH THÁNH

 

Đúng như Kinh Thánh dạy, chúng ta tin chắc chắn Đức Chúa Trời Ba Ngôi, tức có ba thân vị riêng biệt nhưng đồng đẳng, hiệp một Đức Chúa Trời.

Như điều chúng ta học biết từ Kinh Thánh.

Æ Giêhôva Đức Chúa Trời có thân vị là ngôi thứ nhất, được gọi là Đức Chúa Cha.

Æ Đức Chúa Giêxu mang thân vị con người là ngôi thứ hai, được gọi là Đức Chúa Con.

Æ Đức Thánh Linh có thân vị là ngôi thứ ba.

Không phải Ba Đức Chúa Trời nhưng là một Đức Chúa Trời có ba Ngôi.

 

Chúng ta hãy xem Kinh Thánh:

1. Cựu Ước xác nhận lẽ đạo Ba Ngôi:

- Trong công cuộc sáng tạo Kinh Thánh chép: "CHÚNG TA hãy làm nên loài người" (Sáng 1:26).

Rõ ràng chữ “chúng ta” chỉ về số nhiều nhưng có tính chất bình đẳng, đồng công trong công cuộc sáng tạo.

Æ Đức Chúa Trời: Sáng thế ký 1:1

Æ Đức Chúa Giêxu: Giăng 1:1,3,10.

Æ Đức Thánh Linh: Sáng thế ký 1:2b; Gióp 26:13.

- Sáng thế ký 18:1-3 "ĐỨC GIÊHÔVA hiện ra cùng Ápraham ...

Ápraham nhướng mắt lên, thấy BA NGƯỜI đứng trước mặt ...

Sấp mình xuống đất thưa rằng: "Lạy Chúa nếu tôi được ơn phước trước mặt Chúa, xin hãy ghé lại nhà kẻ tôi tớ Chúa, đừng bỏ đi luôn. Xin CÁC ĐẤNG hãy cho phép người ta lấy chút nước rửa chân CÁC ĐẤNG".

Rõ ràng Đức Giêhôva hiện ra cùng Ápraham, Ngài hiện ra thành BA ĐẤNG, được Ápraham thờ lại gọi là CÁC ĐẤNG. Như vậy Giêhôva có Ba Ngôi rõ ràng dù rằng Kinh Thánh chỉ ghi Đức Giêhôva hiện ra, điều đó Ba Ngôi là một trong Đức Giêhôva.

Chúng ta hãy xem tiếp để thấy rõ ràng sự mặc khải về Ba Ngôi.

Sáng thế ký 18:21-22 "Ta muốn ngự xuống để xem xét chúng nó ăn ở có thật như tiếng đã kêu thấu đến Ta chăng ... Vậy CÁC ĐẤNG bèn từ đó đi qua hướng Sôđom. NHƯNG ÁPRAHAM HÃY CÒN ĐỨNG CHẦU TRƯỚC MẶT ĐỨC GIÊHÔVA".

Sáng thế ký 19:1,2 "Lối chiều HAI THIÊN SỨ đến

Sôđôm ... Lót thấy hai thiên sứ đến, đứng dậy mà đón rước và sấp mình xuống đất, người thưa rằng: NẦY LẠY HAI CHÚA ...".

Đức Giêhôva phán: “Ta muốn ngự xuống”, nhưng rồi một người đứng đó. Ápraham vẫn đứng chầu trước mặt Đức Giêhôva, ông cầu thay cho thành Sôđôm và Gômôrơ sắp bị hủy diệt. Nhưng qua đoạn 19, HAI THIÊN SỨ, là HAI ĐẤNG ngự xuống Sôđôm. Như vậy rõ ràng từ “ĐẤNG” là sự mặc khải về Đức Chúa Trời Ba ngôi: Đức Giêhôva Cha, Đức Giêhôva Con và Đức Giêhôva Thánh Linh.

Ápraham vẫn đứng chầu trước mặt Đức Giêhôva, đó là Đức Cha.

Hai thiên sứ xuống Sôđôm được Lót thờ lạy gọi là HAI CHÚA. Đó là Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh được ban xuống trần gian để làm công tác cứu chuộc.

 

2. Tân Ước xác nhận Lẽ đạo Ba Ngôi:

- Trong sách Mác 1:9-13 ký thuật lại việc Chúa Giêxu chịu phép Báptem cho chúng ta biết:

Æ Chúa Giêxu chịu phép Báptem: ngôi hai.

Æ Tiếng từ trời phán: Đức Cha, ngôi một.

Æ Đức Thánh Linh lấy hình chim bồ câu đáp xuống chỉ về ngôi ba.

- Chúa Giêxu phán:

Mathiơ 28:19 "Hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh ĐỨC CHA, ĐỨC CON và ĐỨC THÁNH LINH mà làm phép Báptem cho họ".

- Ba Ngôi Đức Chúa Trời ngự trong lòng tín đồ.

Ä Đức Chúa Trời               I.Côrinhtô 3:16

Ä Đức Thánh Linh    I.Côrinhtô3:16;     Êphêsô 3:12

Ä Đức Chúa Giêxu  Giăng 17:21,23; Mathiơ 28:20

 

- Ba Ngôi Đức Chúa Trời khiến Chúa Giêxu sống lại.

Ä Đức Chúa Trời       Công vụ 2:24;

I.Côrinhtô 6:14

Ä Đức Thánh Linh                 Rôma 8:11

Ä Tự Đức Chúa Giêxu           Giăng 2:19; 10:18

Như vậy Kinh Thánh dạy rất rõ ràng về lẽ đạo Đức Chúa Trời Ba Ngôi, Chứng Nhân Giêhôva phủ nhận, họ đã xúc phạm đến CÁC ĐẤNG. Nếu nói Ba Ngôi là bắt chước các dân Êdíptô, Babylôn, chính họ đã xúc phạm đến Giêhôva Đức Chúa Trời, vì chính Ngài đã dạy về một Đức Chúa Trời Ba Ngôi xuyên suốt Kinh Thánh.

 

 

V -  CON NGƯỜI LÀ LINH HỒN,

LINH HỒN KHÔNG TRƯỜNG   CỬU,

CON VẬT LÀ LINH HỒN NHƯ CON NGƯỜI

Chứng Nhân Giêhôva nói:

Kinh Thánh không nói là Đức Chúa Trời đã ban cho con người một linh hồn.

Song khi Đức Chúa Trời đã bắt đầu làm cho con người, thì người trở nên linh hồn sống.Như vậy con người là linh hồn. Nó không thể là một cái gì vô hình ở trong cơ thể, hoặc có thể rời cơ thể.

"Linh hồn của bạn là chính bạn đấy"

Con người là một linh hồn, là khi con người chết đi thì linh hồn người cũng chết. Kinh Thánh không hề dạy rằng linh hồn là bất tử hoặc không thể chết.

"Loài người chẳng hơn gì loài thú, vì thảy đều hư không, cả thảy đều qui về một chỗ, cả thảy do bụi đất mà ra, cả thảy trở về đất bụi. Loài thú sống được nhờ hơi thở (Thần Linh) như thế nào thì loài người cũng nhờ hơi thở (Thần Linh) mà sống thể ấy".

"Đức Chúa Trời đã tạo ra những linh hồn sống để sống dưới nước"     (Sáng 1:20,30 NW) Bản dịch của Chứng Nhân Giêhôva

"Phần linh hồn sống ở trong biển đều chết hết (Khải huyền 16:2 NW).

"Vì thú vật là linh hồn cho nên khi chúng chết thì linh hồn chúng cũng chết"

(Sách: Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất, chương 7:10,17; 8:5-7)

 

LUẬN CHỨNG TỪ KINH THÁNH

 

1. Con người là linh hồn:

Chứng Nhân Giêhôva nói sự sống của con người là linh hồn. Khi con người chết thì linh hồn cũng không còn nữa. Điều này trái nghịch với lời Kinh Thánh dạy, cũng trái nghịch với nhận thức của lương tâm trong mọi người.

Chúng ta hãy xem Kinh Thánh ký thuật việc Đức Chúa Trời sáng tạo ra loài người:

Sáng thế ký 2:7 "Giêhôva Đức Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh".

Rõ ràng Đức Chúa Trời tạo nên loài người có hai phần:

Æ Bụi đất nắn nên hình người: thể xác

Æ Hà sanh khí vào lỗ mũi: linh hồn

Sanh khí là Ngài đặt chính sự sống của Ngài trong con người, để con người trở nên một loài sanh linh. Nhờ linh hồn đó con người có mối tương quan với Đức Chúa Trời.

Thánh Giăng viết trong III.Giăng 2 "Tôi cầu nguyện cho anh được thạnh vượng trong mọi sự và được khỏe mạnh PHẦN XÁC anh cũng như được thạnh vượng về phần LINH HỒN anh vậy".

I.Têsalônica 5:23 "Nguyền xin Tâm Thần, Linh Hồn và Thân Thể anh em đều được giữ vẹn".

Như vậy Kinh Thánh cho chúng ta biết: trong con người có hai phần riêng biệt là THỂ XÁC và LINH HỒN.

 

* LINH HỒN LÀ BẤT TỬ

Điều Chứng Nhân Giêhôva nói: con người chết thì linh hồn không tồn tại là điều sai với Kinh Thánh.

Chúng ta hãy xem Kinh Thánh:

Sau khi chết, thể xác bằng bụi đất tạm gởi trong lòng đất, nhưng linh hồn trở về nơi Đức Chúa Trời để chịu phán xét.

Truyền đạo 12:7 "Và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và Thần Linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó".

I.Phierơ 3:18,19 "Về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về phần LINH HỒN thì được sống. Ấy bởi đồng một linh hồn đó, Ngài đi giảng cho các LINH HỒN bị tù".

Khải huyền 6:9 "Tôi thấy dưới bàn thờ có những LINH HỒN của kẻ đã chịu giết vì Đạo Đức Chúa Trời".

Trong cổ ngữ Hi Lạp (nguyên ngữ Kinh Thánh Tân Ước) dùng chữ YuXn (Xukhe) = LINH HỒN.

Những câu Kinh Thánh trên chứng minh LINH HỒN là bất tử. Khi con người chết thân xác tạm gởi vào lòng đất còn LINH HỒN thì được sống, đang được cầm giữ bởi Đức Chúa Trời.

2. Con vật không có linh hồn :

Đối với Chứng Nhân Giêhôva họ đồng hóa sự sống với linh hồn là một. Họ cho con vật có sự sống như con người, là trong con vật là linh hồn. Họ trưng dẫn những câu Kinh Thánh được dịch sửa lại của bản New World (NW) của họ.

 

"Đức Chúa Trời đã tạo ra những linh hồn sống để sống dưới nước (Sáng thế ký 1:20,30 NW).

"Đất phải sinh các linh hồn sống tùy theo loại ..." (Sáng thế ký 1:24 NW).

"Phàm linh hồn sống dưới biển đều chết hết" (Khải huyền 16:3 NW).

 

Chúng ta hãy xem những từ ngữ của Kinh Thánh. Trong nguyên ngữ dùng chữ "sanh vật", vật sống tức là vật có hồn (sự sống) chứ không có Linh (Thần Linh). Trong bản Kinh Thánh Anh ngữ Kings James Version:

Sáng thế ký 1:21,24 dùng chữ "the living creature = loài thú có sự sống.

Sáng thế ký 2:7 "a living soul" (linh hồn) = con người có phẩm chất.

 

- Trong từ điển Việt Nam:

Æ Linh hồn: là phần thiêng liêng nhất trong con người.

Æ Giác hồn: trung tâm điều khiển cảm giác, hoạt động trong con vật.

 

- Như vậy chúng ta biết rõ để phân biệt:

con người: thân thể + hồn + linh.

con vật: thân thể + giác hồn

Con người là tạo vật thiêng liêng hơn con vật.

Chúng ta xét trong công cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời.

 

- Chúa tạo nên mọi vật bằng lời phán của Ngài thì liền có như vậy (Sáng thế ký 1:1-25).

- Nhưng Ngài tạo nên loài người bằng hành động của Ngài (Sáng 2:7). Lấy bụi đất nắn người + hà sinh khí vào.

Đức Chúa Trời phán rằng: "Chúng ta hãy làm nên loài người như HÌNH TA và TƯỢNG TA, đặng người quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất và khắp cả đất" (Sáng thế ký 1:26). Như vậy con người phải có một giá trị đặc biệt mà Đức Chúa Trời ban cho.

- Ngài tạo nên con người như HÌNH TƯỢNG của Ngài. Như vậy chúng ta có phần TÂM LINH giống như Ngài. Loài người được trở nên làm CON của ĐỨC CHÚA TRỜI là nhờ con người có LINH HỒN, có mối tương giao với thần linh mà chính Đức Chúa Trời là Chân Thần.

- Khi con người phạm tội thì phần linh bị chết đối với Ngài, con người sẽ tương giao với tà linh tức ma quỉ.

- Con người được quyền QUẢN TRỊ muôn vật. Nên nhớ là QUẢN TRỊ MUÔN VẬT chứ không phải là GIỐNG NHƯ CON VẬT như tà thuyết Chứng Nhân Giêhôva đã nói. Điều đó trong thực tế đã chứng minh.

Æ Con người là sinh vật có tôn giáo.

Æ Con người có sự khôn ngoan để quản trị vũ trụ và muôn vật.

Lời Chúa phán rằng:

Thi thiên 8:5,6 "Chúa làm người kém Đức Chúa Trời MỘT CHÚT, đội cho người sự vinh hiển và sang trọng ... Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, khiến muôn vật phục dưới chơn người".

Chứng tỏ những tà thuyết đó đã chà đạp trên nhân phẩm của con người được Đức Chúa Trời ban cho. Chứng Nhân Giêhôva đã tự làm mất phẩm chất của chính mình. Điều đó Chúa kết án rằng:

II.Phierơ 2:12 "Nhưng chúng nó cũng như con vật không biết chi, sanh ra chỉ làm thú vật để bị bắt mà làm thịt, hay chê bai điều mình không biết, rồi chết đi như con vật, dường ấy chúng nó lãnh lấy tiền công về tội ác mình".

 

 

VI -  KHÔNG TIN CÓ HÌNH PHẠT ĐỜI ĐỜI

 

Chứng Nhân Giêhôva nói:

"Liệu Đức Chúa Trời đầy yêu thương có nỡ nào hành hạ người ta mãi không ? Chắc là không".

"Kinh Thánh dùng chữ SHEOL và chữ HEDES để chỉ nơi mà người chết đi đến SHEOL và HADES không hề ám chỉ đến một nơi thống khổ, nhưng mà là MỒ MẢ chung cho nhân loại".

"Cả người lành lẫn người ác đi xuống "địa ngục" phải hiểu là MỒ MẢ"

"Chữ GHE-HEN-NA cũng giống như hai chữ trên là MỒ MẢ".

"Thế thì "hồ lửa" được nêu ra trong sách Khải huyền là gì? Tức là sự chết đời đời hay là sự tiêu diệt đời đời chứ không phải là một sự hành hạ cảm thấy được".

"Ma quỉ và kẻ ác bị hành hạ đời đời trong hồ lửa không thể hiểu theo nghĩa đen. Ma quỉ và kẻ ác đều xuống mồ mả, tức là chết là không còn gì cả".

Chứng Nhân Giêhôva nói:

"Ma quỉ đã bắt đầu nói dối cho rằng linh hồn vẫn tiếp tục sống sau khi người ta chết. Và ma quỉ cũng đã tuyên truyền sự nói dối khác là linh hồn của những người ác bị hành hạ trong một địa ngục"

(Sách Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất chương 9:3-19)

LUẬN CHỨNG TỪ KINH THÁNH

TRONG CỰU ƯỚC

Từ ngữ               PHẦN MỘ - MỒ MẢ

Hêbơrơ              QEBER

Hy lạp cổ           MVnMeIOV        (MANEMION)

Anh ngữ            GRAVE

Phần mộ là chỗ chôn người chết

Kinh Thánh Cựu Ước có đề cập đến phần mộ

Æ Nghĩa địa của Ápraham mua để chôn trong xứ Canan (Sáng thế ký 50:5)

Æ Nhiều mộ phần tại xứ Êdíptô (Xuất 14:11)

Æ Đụng đến cái mộ là bị ô uế (Dân số ký 19:16)

Æ Than khóc bên mộ  (II.Samuên 3:32)

Æ Thi hài người chết đặt nơi mộ (I.Các vua 13:30)

Từ QEBER (mộ) trong bản Hêbơrơ được dùng 67 lần (Cựu Ước).

Từ SHEOL được dùng 65 lần.

Trong bản dịch Anh và Việt ngữ đều dịch là âm phủ, địa ngục (HELL)

Trong Cựu Ước chỉ có một nơi cho linh hồn người chết ở được gọi là ÂM PHỦ.

Chúng ta hãy căn cứ một số câu Kinh Thánh có chữ SHEOL hoặc HEDES

Sáng thế ký 37:35 "Ta để tang luôn xuống chốn âm phủ (sheol) cùng con ta"

Giacốp tin rằng Giôsép bị thú dữ ăn thịt về phần xác thì không có mồ mả, từ này phải dịch là ÂM PHỦ.

Gióp 11:8 "Sự ấy vốn cao bằng các từng trời: Vậy ông sẽ làm gì? Sâu hơn âm phủ: ông hiểu biết sao đặng?".

Đo chiều cao các từng trời với chiều sâu của âm phủ thì không thể dịch là mồ mả.

Thi thiên 9:17 "Kẻ ác sẽ bị xô xuống âm phủ (Sheol) và các dân quên Đức Chúa Trời cũng vậy".

Thi thiên 16:10 "Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi trong ÂM PHỦ" (Hedes).

Thi thiên 55:15 "Nguyện chúng nó còn sống phải sa xuống âm phủ vì sự ác ở nhà chúng nó, tại trong lòng chúng nó".

Trong bản Anh ngữ chữ SHEOL, HEDES đều dùng chữ HELL (Địa Ngục): xứ sở của kẻ độc ác. Tất cả những kẻ ác đều phải xuống chốn âm phủ.

Thi thiên 116:3 "Sự đau đớn âm phủ áp hãm tôi"

Nếu là mồ mả thì không có sự đau đớn.

Châm ngôn 7:27 "Nhà nàng (điếm) là con đường của Âm phủ" (Sheol, Hell).

Châm ngôn 9:18b "... Những người khách của nàng (điếm, kỵ nữ) đều ở chốn sâu của âm phủ" (Sheol, Hell).

Nếu dạy chỉ là mồ mả thì không còn gì là đạo đức nữa. Người lành và kẻ ác cuối cùng chỉ đi đến mồ mả. Chúng ta nghĩ thế nào về SỰ CÔNG BÌNH của Đức Chúa Trời? Nếu nói như Chứng Nhân Giêhôva thì vứt bỏ hết mọi luân lý, đạo đức, xem tội lỗi như trò đùa, chắc chắn sẽ dẫn đến cho xã hội một tình trạng đạo đức suy đồi.

 

TRONG TÂN ƯỚC

Địa ngục, Hồ lửa = từ HEDES - GHE-HEN-NA: nơi có khóc lóc và nghiến răng.

Chứng Nhân Giêhôva nói liệu Đức Chúa Trời đầy yêu thương có nỡ nào hành hạ người ta mãi mãi không? Chắc chắn là không.

Rõ ràng Đức Chúa Trời là Sự Yêu Thương nhưng bản tính của Ngài cũng là Thánh Khiết và Công Bình nữa. Ngài không bao giờ chấp nhận sự ác. Trong Kinh Thánh bày tỏ Đức Chúa Trời gớm ghiếc điều ác. Để trọn luật Công Bình và Thánh Khiết thì Ngài phải trừng phạt kẻ phạm tội. Như một hậu quả tự nhiên "Gieo giống chi gặt giống ấy" (Galati 6:7) cho kẻ phạm tội. Nhưng tình yêu thương của Đức Chúa Trời cũng vô hạn, bày tỏ tình yêu đo bằng cách ban cho con Ngài là Giêxu Christ xuống thế gian để gánh chịu hậu quả của tội lỗi con người trên thập tự giá. Chính Đức Chúa Giêxu đến để làm thỏa mãn luật công bình của Đức Chúa Trời cũng bày tỏ tình thương cao cả của Ngài cho nhân loại. Điều kiện để nhận được tình yêu trong sự tha thứ là phải Ăn Năn và Tin Nhận Chúa Giêxu (Mác 1:15; Giăng 3:16).

 

Một khi con người khước từ tình yêu của Ngài, thì chính họ phải chấp nhận sự trừng phạt bởi tội ác họ gây nên.

Giăng 3:36 "Ai tin Con thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Con thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng CƠN THẠNH NỘ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI vẫn ở trên người đó".

Trong xã hội, phải có luật pháp làm kỷ cương. Nếu vi phạm tức phải bị hình phạt đó là điều tất nhiên. Nếu không có điều đó, xã hội sẽ đi đến chỗ loạn. Con người sống trong quyền tể trị của Đức Chúa Trời, phải sống đúng với Luật của Ngài là Kinh Thánh. Nếu không, phải chấp nhận hậu quả. Đó là chứng tỏ sự trọn vẹn của Đức Chúa Trời.

Chính vì vậy lời Chúa phán:

II.Phierơ 2:9 "Chúa biết cứu những người tin kính khỏi cơn cám dỗ, và hành phạt kẻ không công bình, cầm chúng nó lại để chờ ngày phán xét".

Rôma 3:5b "Khi Đức Chúa Trời giáng cơn giận thì Ngài không công bình sao?"

Rôma 3:6a "Chẳng hề như vậy".

Rôma 3:8b "Sự đoán phạt những người đó là công bình".

- Chính lương tâm của con người cũng cho biết rằng "gieo gió thì gặt bão". Chúng ta hãy xem Kinh Thánh để biết hậu quả của kẻ ác và ma quỉ.

Khải huyền 20:10 "Ma quỉ là đứa dỗ dành chúng, thì bị quăng xuống hồ lửa và diêm. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời".

Khải huyền 20:15 "Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống Hồ Lửa".

Khải huyền 21:8 "Kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghiếc, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ thờ phượng thần tượng và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở nơi có lửa và diêm cháy bừng bừng: đó là sự chết thứ hai".

Đaniên 12:2 "Nhiều kẻ ngủ trong bụi đất sẽ thức dậy, kẻ thì để được sự sống đời đời, kẻ thì để chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời".

Mathiơ 25:34,41,46 “Bấy giờ vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước Thiên Đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất ... Kế đó, Ngài sẽ phán cùng những kẻ ở bân tả rằng: Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi ta; đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỉ và những quỉ sứ nó ... Rồi những kẻ nầy sẽ vào hình phạt đời đời, còn những người công bình sẽ vào sự sống đời đời”.

Như vậy Kinh Thánh nói đến ngày Tái Lâm mọi thân xác đều sống lại cùng với linh hồn mình để chịu sự phán xét.

Trong Luca 16:19-21, Chúa Giêxu đã kể câu chuyện của Laxarơ và người giàu để mặc khải cho chúng ta biết sự thật về sau khi chết. Laxarơ là người tin cậy Chúa ở nơi phước hạnh còn người giàu phải ở nơi hồ lửa hết sức đau khổ, chỗ mà Chúa Giêxu thường gọi là chỗ "khóc lóc và nghiến răng".

Chứng Nhân Giêhôva nói rằng: "Giêxu chỉ nói ra câu chuyện trên để răn đời mà thôi. Để chứng tỏ một cách rõ rệt hơn nữa rằng đây không phải là một câu chuyện có thật".

Dù rằng câu chuyện trên là một ví dụ, nhưng Chúa dùng câu chuyện đó để giải bày một chân lý có thật, chắc chắn có thật.

Nếu nói như Chứng Nhân Giêhôva rằng: "Ma quỉ đã bắt đầu nói dối cho rằng linh hồn vẫn tiếp tục sống sau khi người ta chết và Ma quỉ đã tuyên truyền sự nói dối khác là linh hồn của những người ác bị hành phat trong địa ngục.Thì cho Chúa Giêxu và lời Kinh Thánh là Ma quỉ nói dối sao? Không! Không bao giờ. Chúa là Chân Thật. Lời Ngài là Lẽ Thật (I.Phierơ 2:22; Giăng 17:17).Chính tà thuyết Chứng Nhân Giêhôva là Satan kẻ chuyên nói dối và cha của sự nói dối. Từ đầu tiên Satan lấy hình con rắn đến nói dối với Eva: "Hai ngươi  chẳng chết đâu" (Sáng3:4) để đánh lừa, nhưng sau khi ăn trái cấm rồi mới thấy sự đau khổ, địa ngục trần gian và hồ lửa đời đời.

Lời Kinh Thánh Chúa phán dạy:

"Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được Lẽ Thật, VÌ KHÔNG CÓ LẼ THẬT TRONG NÓ ĐÂU ... Vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha của sự nói dối" (Giăng 8:44).

 

VII -  NƯỚC ĐẤNG CHRIST CAI TRỊ

 

Chứng Nhân Giêhôva nói:

Vào năm 607 TC là bắt đầu các kỳ dân ngoại.

Theo sách Đaniên đoạn 4 "các kỳ" này là "bảy kỳ". Bảy kỳ này kéo dài bao lâu ?

Trong Khải huyền 12:6, 14 chúng ta biết 1.260 ngày tương đương với "một thì, các thì (hai thì) và nửa thì" tổng cộng là ba thì rưỡi. Một thì tương đương với 360 ngày, do đó 7 thì là: 360 x 7 = 2.520 ngày. Theo Dân số ký 14:34 một ngày bằng một năm như vậy 2.520 ngày bằng 2.520 năm như vậy đến năm 1914 kỷ nguyên chung (thế chiến thứ nhất bắt đầu).

Điều này có nghĩa là Giêxu Christ đã bắt đầu cai trị với tư cách là Vua trong chính phủ Đức Chúa Trời.

(Sách Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất trang 140-141).

 

LUẬN CHỨNG TỪ KINH THÁNH

 

1. Các "kỳ dân ngoại được trọn" không phải vào năm 1914 khi thấy thế chiến thứ nhất vì Chúa Giêxu phán: "Dân này dấy lên nghịch cùng dân khác, nước nọ nghịch cùng nước kia; nhiều chỗ sẽ có đói kém và động đất. Song mọi điều đó chỉ đầu sự tai hại" (Mathiơ 24:7,8). Theo như Kinh Thánh "kỳ các dân ngoại được trọn" đó là lúc "TIN LÀNH được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân , bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến” (Mathiơ 24:14).

2. Nếu nước Đấng Christ được hoàn toàn thiết lập năm 1914, thì không còn chiến tranh, tội ác cũng không còn như Kinh Thánh mô tả trong Êsai 2:2-4; Michê 4:1-5; Khải huyền 7;9-17; Khải huyền 11:15.

Êsai 2:2-4 "... Trong những những ngày sau rốt, núi của nhà Đức Giêhôva sẽ được lập vững trên đỉnh các núi cao hơn các đồi. Mọi nước sẽ đổ về đó, và nhiều dân tộc sẽ đến mà nói rằng: Hãy đến; chúng ta hãy lên núi Đức Giêhôva ... Ngài sẽ dạy chúng ta về đường lối Ngài, chúng ta sẽ đi trong các nẻo Ngài ... Bấy giờ họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn luỡi liềm. Nước này chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến tranh".

Thế nhưng từ năm 1914 thế giới bắt đầu đại chiến lần thứ nhất (1914 - 1918), lần thứ hai (1939 - 1945) và cho đến ngày nay các nguy cơ chiến tranh và chiến tranh liên lục bùng nổ ở các nơi trên thế giới, nhất là ở vùng Trung đông. Họ chém giết bằng vũ khí hiện đại, tiêu diệt lẫn nhau. Rõ ràng tình hình thế giới càng tối tăm, tệ hại hơn bao giờ hết.

Rồi tình trạng đạo đức suy đồi khủng khiếp, bạo lực, dâm loạn, ma túy v.v...

Một thế giới như vậy mà gọi là vương quốc của Đấng Christ cai trị sao ? Không bao giờ, chỉ là một vương quốc giả của Giêhôva mà Chứng Nhân Giêhôva hô hào. Nhưng thực sự hơn bao giờ hết, Satan biết ngày nó hầu gần, giận hoảng mà đến cùng chúng ta, để đưa thế giới và chỗ tối tăm hơn hết. Dùng những tiên tri giả, Christ giả để giả mạo làm thiên sứ sáng láng (Mathiơ 24:4,5), nhưng nó bị Lời Đức Chúa Trời chỉ rõ mặt nạ xảo quyệt của nó ra.

 

VIII -  ĐỊA ĐÀNG ĐƯỢC THIẾT LẬP NGAY TRÊN ĐẤT

 

Chứng Nhân Giêhôva nói:

"Sau trận chiến Hạtmaghêđôn có một sự sống lại khác tiếp theo để sống trong địa đàng trên đất này".

"Ai sống sót qua khỏi Hạtmaghêđôn sẽ làm lụng để biến trái đất này thành địa đàng".

"Đức Chúa Trời đang dành sẵn cho bạn sự sống đời đời trong địa đàng trên đất này".

(Sách Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất trang 177, 255)

 

LUẬN CHỨNG TỪ KINH THÁNH

Sau khi Ađam phạm tội họ phải gánh chịu hậu quả của tội lỗi họ gây ra, cho nên Kinh Thánh chép:

Sáng thế ký 3:17-18 "Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê ...".

Chính vì sự rủa sả đó, Kinh Thánh cho biết sau ngày phán xét và thiên đàng sẽ như thế nào ?

II.Phierơ 3:6 "Trời đất thời bấy giờ ... để dành cho Lửa, Lửa sẽ đốt nó đi trong ngày phán xét".

II.Phierơ 3:10 "Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm qua đi, các thể chất bị đốt và tiêu tán".

Đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả.

II.Phierơ 3:12 "Trong khi chờ đợi, trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tan, các thể chất sẽ bị thiêu và tan chảy đi".

II.Phierơ 3:13 "Chúng ta chờ đợi TRỜI MỚI, ĐẤT MỚI là nơi sự công bình ăn ở".

Khải huyền 21:1 "Tôi thấy trời mới, đất mới vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến mất, và biển cũng không còn nữa".

Qua lời Chúa trên đây chúng ta biết rằng: Trái đất và vũ trụ này cũng không còn nữa trong ngày phán xét, vì nó đã bị ô uế bởi tội lỗi của loài người. Thiên đàng là vương quốc của Đức Chúa Trời được thiết lập một nơi hoàn toàn mới. Lời Chúa Giêxu phán rằng:

Giăng 14:2,3 "... Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ, khi ta đã đi và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi. Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó".

Chúng ta đang hy vọng và trông chờ một quê hương tốt hơn. Tức là quê hương ở trên trời. Nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ. VÌ NGÀI ĐÃ SẮM SẴN CHO HỌ MỘT THÀNH" (Hêbơrơ 11:16).

Lời Chúa cho chúng ta biết thiên đàng là:

I.Phierơ 1:4 "Là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn để dành trong các từng trời cho anh em".

Cho đến ngày Chúa tái lâm Kinh Thánh chép:

I.Têsalônica 4:16,17 "Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết. Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau cùng được CẤT LÊN với những người ấy GIỮA ĐÁM MÂY, TẠI NƠI KHÔNG TRUNG mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn".

Rõ ràng một Thiên đàng mà Chúa dành sẵn đời đời không phải trên trái đất này. Sau khi sự phán xét cuối cùng (Khải huyền 20:11-15) bởi quyền năng của Đức Chúa Trời trong tích tắc sẽ có một Thiên đàng vinh hiển cho dân Thánh cùng ở với Chúa và chắc chắn sẽ có một hồ lửa, địa ngục sẽ định tội kẻ ác và ma quỉ đời đời. Như vậy trên Thiên đàng, trong vương quốc đời đời của Ba Ngôi Đức Chúa Trời tể trị không còn sự hiện diện của tội ác và ma quỉ nữa. Tại đó, chúng ta sẽ cùng ở với Chúa đời đời trong yêu thương và công chính. Amen

 

NHỮNG SÁCH THAM KHẢO

 

Æ Tìm hiểu các giáo phái                      MSGS. Phạm Xuân Tín

Æ Tìm hiểu các tà giáo                            MS. Nguyễn Xuân Tín

Æ Nghệ thuật chinh phục linh hồn tội nhân

GS. Murray Downey

Æ Bạn có thể sống đời đời trong địa đàng trên đất

Watch Tower Bible &Tract Society

Æ Sự hiểu biết dẫn đến sự sống đời đời                    - nt -

 

Æ Tạp chí "THÁP CANH" 5/95                            Watch Tower

Æ Holy Bible                                             Kings James Version

Æ Thánh Kinh cổ ngữ Hy Lạp

 

Những chứng minh sự hiện hữu của Đức Chúa Trời

Những chứng minh sự hiện hữu của

Đức Chúa Trời:

1. LƯƠNG TÂM chứng minh :

Từ  lúc ban đầu, Đức Chúa Trời tạo nên con người, Ngài ban cho con người có lương tâm, chính lương tâm đã dạy cho con người nhận biết sự thực hữu của Đức Chúa Trời. Chính nhận thức lương tâm là bản văn luật pháp để con người nhận biết đạo đức và niền tin nơi Đức Chúa Trời.Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm theo những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy, dẫu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình. Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ; Chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp,còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình.’’(Rô ma 2:14,15). Vì vậy, đối với những người bái vật giáo, chứng nhân phải đưa than hữu đến nhận thức từ long tâm. Người ta thường nói: "Đạo tại tâm". Tức là, con người chỉ cần trở về với lương tâm thì nhận thức được Đạo. Đạo là đạo đức. Nhưng Đạo cũng chính là niềm tin. Niềm tin nơi Đức Chúa Trời. Kinh Thánh chép : "Đạo ở gần ngươi, ở trong miệng và trong lòng ngươi, ấy là đạo đức tin mà chúng ta giảng dạy" (Rô ma 10:8). Chính vì vậy, chúng ta nên sử dụng nguồn lương tâm chứng minh sự thực hữu của Đức Chúa Trời, vì mọi người đều có lương tâm. Chúng ta không nên cho thân hữu có ý thức phân biệt về tôn giáo, hoặc xử dụng những ngôn từ tôn giáo, điều đó chúng ta sẽ tạo một khoảng cách làm cho  thân hữu khó tiếp nhận. Chúng ta hãy chứng minh sự hiện hữu và quyền tể trị, phán xét của Đức Chúa Trời qua lương tâm với từ ngữ là “ÔNG TRỜI”. Vì vậy trở về với lương tâm thân hữu sẽ nhận biết đạo, sẽ nhận biết niềm tin duy nhất là Đức Chúa Trời. Vì NIỀM TIN nơi ĐỨC CHÚA TRỜI đã ngự trị trong tâm của mọi người. Trở thành một nhận thức bẩm sinh mà ai cũng phải công nhận.

Vậy lương tâm chứng minh  Đức Chúa Trời là ai?:

a. Đức Chúa Trời là Đấng tạo hóa.

Sáng 1-2, Thi 89:11, Công vụ 14:15...

Khổng tử dạy:"Thiên sinh vạn vật duy nhân tối linh".

Lời nầy chứng minh Đức Chúa Trời là Đấng tạo dựng nên  muôn loài vạn vật, trong vạn vật đó, có con người là cao quí, có Linh hồn được gọi là tối linh.

"Thiên sinh nhơn". Tức là Trời sinh người. Ở Trung Hoa chữ

THIÊN                NHÂN

Chữ Thiên có hình dáng như chữ Nhân. Nhưng có hai gạch trên tức là chữ Nhất và chữ Đại. Cho nên, chúng ta đưa đến cho thân hữu nhận thức Trời tạo nên con người có linh hồn, mang ảnh tượng của Đức Chúa Trời. Vì vậy, con người là con của ông Trời, được gọi là THIÊN TỬ.

 

Ca dao Việt Nam có câu: "Trời sinh voi, sinh cỏ, Trời sinh người thì sinh lộc. Trời sinh, Trời dưỡng".“ Trăm sự nhờ Trời”

Như vậy. Con người phải nhờ lộc Trời mới sống được. Có nhiều người đi rút lộc là những đồng đô la âm phủ. Tin vào những đồng đô la giả. Nhưng trong đồng ĐÔ-LA của Mỹ luôn có in chữ: “IN GOD WE TRUST” nghĩa là: CHÚNG TÔI TIN CẬY ĐỨC CHÚA TRỜI. (ÔNG TRỜI). Cho nên, giá trị của Đô la có giá trị trên thương trường. Đem lại cho nền kinh tế của quốc gia Mỹ giàu có.

Mọi người đều ý thức sự hiện hữu kỳ diệu của vũ trụ, thiên nhiên do Trời sinh.

Ví dụ : Khi chúng ta nhìn cây dừa cao 5m-7m nó hút nước được dựng trong sọ dừa cứng, nhưng nếu như vậy, khi hái xuống thì sẽ vỡ sọ, sẽ không còn nước. Để bảo vệ, bên ngoài có lớp vỏ, là lớp xốp dày khoảng 10cm. Chính như vậy mới bảo vệ được nước bên trong. Nếu hỏi: Tại sao có như vậy? Thì ai cũng đáp rằng: “Trời sinh vậy chứ ai m biết”.

+ Mục đích chứng minh Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa để con người phải biết ơn Đấng Tạo Hóa. Vì hưởng ơn mà không biết ơn là tội.

b .Đức Chúa Trời là Đấng cầm quyền trên giàu, nghèo, thành công hay thất bại. (Gióp 2:10).

Khổng Minh Gia Cát Lượng nói:

"Mưu sự tại nhân, thành sự doThiên"

"Trời coi ai nấy nên, Trời hại ai nấy hư"

"Phú quí tại Thiên"

"Làm ăn Trời cho mới có, Trời không cho thì mạt"

"Người tính không bằng Trời tính"  v.v...

Chúng ta cần người giúp đỡ một việc nào đó thì phải đến với người có khả năng giúp, chứ không thể đến với người không có khả năng. Như vậy, long tâm cho con người biết, Trời có quyền giúp cho thành công, chúng ta phải đến với ông trời. Hình tượng, người chết không thể giúp được.

 

+ Chứng minh Đức Chúa Trời là Đấng cầm quyền trên phước và họa, Thành công hay thất bại. Mục đích đưa mọi người đến lòng TIN CẬY Đức Chúa Trời. Và ý thức mọi sự trên đời này mà chúng ta có cũng bởi Đức Chúa Trời mà có.

+ Nước văn minh, thành công trong thương mại, kinh tế người ta in trong đồng đô la câu: “IN GOD WE TRUST” dịch là: trong Đức Chúa Trời (ông Trời) chúng tôi tin cậy.

c. Đức Chúa Trời là Đấng cầm quyền trên mọi công ly. (Giê–rê-mi 17:9) (Châm ngôn 11:24).

"Ăn ở rộng rãi Trời cho. Ăn ở bo bo Trời lấy lại"

"Thiên báo nhãn tiền". (Trời báo trước mắt).

"Lưới Trời lồng lộng, không đường chạy thoát".

"Ở thiện Trời thương, ở ác Trời phạt".

"Thiện ác đáo đầu chung hữu báo"

(Thi 10:14, Truyền đạo 12:12, Ê-xê-chi-ên 18:4).

“ Gieo gió thì gặt bão”.  “Ăn ở có đức một sức mà ăn”

Thật sự, nếu con người nhìn biết Đức Chúa Trời là Đấng thưởng phạt công bình, báo trả những việc làm thiện, ác thì con người sẽ sống đạo đức hơn.

+ Chứng minh Đức Chúa Trời cầm quyền trên công lý để mọi người phải biết rằng: mọi hành vi đạo đức của con người đều phải ứng hầu trước sự phán xét của Ngài. Mọi người phải kính sợ Đức Chúa Trời. Khi có nhận thức như vậy con  người sẽ  sống có đạo đức hơn. Vì sẽ có sự báo trả công bằng.

d. Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri:

(Thi 139; Gieremi  17: 9,10)

"Thiên nhãn", Trời có mắt.

Đối diện với những điều bí mật nhất thì con người thường kêu lên:   "Chỉ có Trời biết"."Trời thấu tâm",

Đối diện với sự oan ức "Trời ơi, xin Trời chứng lòng tôi".

Có một người hỏi bạn: “ anh biết cô đó nghỉ gì không?” Chắc chắn người bạn nói rằng: “Chỉ có Trời biết chứ ai biết được”. Lời nói tốt chưa phải là tốt, nhưng vấn đề là tâm có tốt hay không. Vì Đức Chúa Trời căn cứ vào tâm để định tội.

+ Chứng minh Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri, để mọi người không cần phải minh oan, hay tìm cách báo thù. Vì biết việc  lm của chúng ta Trời biết, Trời báo. Ý thức lòng dạ của loài người đều là tội lỗi. Khi con người có ý thức đó, họ không thể bào chữa hay giấu tội của mình được.

g. Đức Chúa Trời cứu giúp trong lúc nguy khốn, Đấng cứu nạn-cứu khổ.( Đấng toàn tại)

Đối diện với những tai họa, lâm nguy, hay sự khủng hoảng mọi người đều kêu cứu: "TRỜI ƠI! ". tiếng ku cứu nầy l tiếng nhạy cảm, phản ứng nhanh nhất, dù con người từ nhỏ đến lớn, khơng ai dạy gặp nguy nan thì phải ku TRỜI. Nhưng đó là bản năng tín ngưỡng mà Đấng Tạo Hóa đ đặ sẵn trong lương tâm của mọi người. Khi gặp may mắn thì người thường nói: “ Nhờ Trời chút nữa là chết”

Đối diện với sự đau khổ người than : "TRỜI ƠI sao tôi khổ".

“ Cầu Trời cho tai qua nạn khỏi

+ Mục đích  là để chứng minh cho mọi người biết : Trước những khốn khổ, tai nạn, con người đều kêu cầu Ngài vì Ngài ở khắp mọi nơi và cứu giúp những người cầu khẩn Ngài. Để mọi người không nhờ cậy nơi người chết và hình tượng. Và khi nhận được sự trợ giúp của Ngài thì phải biết ơn Ngài.

 

g. Đức Chúa Trời cầm quyền trên vận mạng (Thi 90:3)

"Trời gọi ai nấy dạ".

"Số Trời đã định, không đường chạy thoát".

"Sống nhờ Trời, chết chầu Trời, lá rụng về cội".

“ Sống khôn, thác Thiên”

“ Sống gởi, thc về”

+ Chứng minh để mọi người biết rằng, sự sống, sự chết của con người đều thuộc về quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Sau khi chết linh hồn con  người đều phải trở về với Đức Chúa Trời “ chết chầu Trời”, “ Lá rụng về cội”.cội nguồn là Đức Cha Trời Tức là trở về với Đấng dựng nên con người.(Truyền đạo 12:7; Êxechien 18:4) Cho nên, mọi linh hồn con người phải trở về ứng hầu trước tòa án của Đức Chúa Trời.

Chúng ta phải chứng minh cho mọi người biết rằng: Đức Chúa Trời là tạo nên muôn vật cho con người hưỡng thụ, Đấng ban phước, Đấng cầm quyền tể trị và phán xét mọi người, mọi linh hồn đều thuộc về Đức Chúa Trời. Họ không chối cải được chính lương tâm của họ, để đưa đức tin mọi người phải hướng về một Đức Chúa Trời duy nhất.

 

Chứng nhân  nên cần phân tích rõ chữ Trời có hai ý nghĩa:

-  TRỜI của lương tâm là Đấng Tạo Hóa ra trời và đất. Đấng cầm quyền tể trị trên cuộc sống của con người. Ngài chính là chủ thể vô hình, tối cao. Một Đấng siên nhiên, là cội nguồn của vạn vật. Ngài không bị lệ thuộc vào vật chất. Chính Ngài là Đấng Tạo Hóa tạo ra vạn vật trong vũ trụ và con người.

 

- TRỜI của bái vật giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và vô thần là thiên nhiên, vũ trụ. (nghiên cứu trong Phật giáo và vô thần) cho nên, người dân thường có bàn thiên dựng ở ngoài trời, và bên cạnh đó có bàn thờ ông địa. Được gọi là thiên địa. Kinh thánh chép: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (sáng thế ký 1:1). Cho nên thiên nhiên, vũ trụ là vật thọ tạo của Đức Chúa Trời. Người Phật giáo ảnh hưởng bái vật giáo, bàn thiên để ngoài trời thờ thần mưa, sao…thờ thiên nhiên.

 

Thông thường, người ta vẫn gọi  là ông Trời nhưng đối với người tỏ lòng tôn kính thì gọi là ĐỨC CHÚA TRỜI. Mọi dân tộc đều có những từ ngữ xưng hô đối với Đấng tối cao đó như : GOD (Anh ngữ), THƯỢNG ĐẾ (Hán việt), YANG (dân tộc) v.v... Nếu bác bỏ niềm tin ấy là đi ngược với lương tâm của chính mình.

2. Khoa học chứng minh:

Từ buổi đầu sng tạo Đức Cha Trời đ tạo dựng vũ trụ v muơn vật trên đất hoàn thiện được kiểm soát bằng những định luật trong thiên nhiên. Sau đó Ngài mới tạo dựng nên con người v phn rằng : “ Chúng ta hãy làm nên loài người theo như hình ta và tượng ta đặng quản trị loài cá biển, chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất và khắp cả đất” “ Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản thêm nhiêu làm cho đầy dãy khắp đất, HÃY LÀM CHO ĐẤT PHỤC TÙNG” (sng thế ký 1:26,28). Đức Chúa Trời ban cho con người có bộ óc khôn ngoan để nghiên cứu , khám phá ra những điều kỳ diệu trong thiên nhiên. Đó chính  là cơng việc của  các nhà khoa học. Con người là ưu việt trong cỏi thiên nhiên. Kinh thánh chép: “Ngày mà Đức Chúa Trời dựng nên loài người, thì Ngài làm nên loài người giống như Đức Chúa Trời” (sáng. 5:1b). “ Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút, đội cho người sự vinh hiển và sang trọng. Chúa ban cho người cai trị công việc tay Chúa làm, khiến muôn vật phục dưới chân người” (Thi thiên 8:5,6) Giá trị nhân phẩm và uy quyền của con người rất cao quí trong cỏi thiên nhiên, con người không thể ngồi yên, thủ phận, nhưng con người luôn luôn tìm tòi, nghiên cứu mọi sinh vật quanh mình, chịu trách nhiệm bảo tồn và có khả năng sáng tạo (chế tạo).  Khoa học là môn học khảo cứu thiên nhiên để tìm ra những định luật sẳn có nhằm phục vụ cho cuộc sống của  con người. Đây chính là nền tảng văn minh để con người ý thức trách nhiệm và phát triển khoa học hiện đại. Hiện nay, theo thống kê về chỉ số thông minh, thì dân tộc Do Thái đứng hàng đầu thế giới và đa số những nhà khoa học có gốc người Do Thái, người Do Thái tin vào độc than là Đức Chúa trời. Bốn thế kỷ qua trong bốn trăm nhà khoa học, đã có ba trăm tám mươi nhà khoa học tin vào Đấng Tạo Hóa.

 

Những định luật chứng minh sự hiện hữu của vũ trụ có ĐẤNG TẠO HOÁ:

1-* Định luật bảo tồn vật chất của Newton : Vật chất không  tự  nhiên  sinh ra cũng không tự nhiên mất đi , nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác".

+ “Vật chất không  tự  nhiên  sinh ra cũng không tự nhiên mất đi..”. Điều đó có nghĩa là vật chất hiện hữu trong thế giới này  đều có nguyên nhân tạo thành, không phải tự nhiên mà có. Khi nhìn vào bất kì vật gì như tòa nhà, đồng hồ, xe máy… chắc chắn phải có kỹ sư làm ra nó. Những phát minh, sáng chế càng tinh vi bao nhiêu, cho chúng ta thấy trình độ kỹ sư càng giỏi bay nhiêu. Cho nên, khi nhìn vào hiện hữu và sự pht triển hồn hảo của muơn vật trong vũ trụ, chng ta phải biết điều đó không thể tự nhiên mà có. Nếu kết luận vũ trụ, muôn vật tự nhiên mà có là phản khoa học. Rõ ràng vũ trụ phải do Đấng tạo hóa, một Đấng Thần Linh hiện hữu ở ngoài vật chất hữu hạn sng tạo  và đó chính là Đức Cha Trời. Như vậy kết luận nầy phù hợp với khoa học.

 

Quan điểm tự nhiên sinh ra vũ trụ vạn vật hoàn toàn không phù hợp với khoa học. Ngay cả quan điểm của Phật học cho rằng cái có và cái không cùng có moat lần trở thành vain kiếp luân hồi. không có nguyên nhân ban đầu hoàn toàn đi ngược lại với định luật bảo tồn vật chất, Pascan kết luận: "Ngẫu nhiên là kết quả của sự ngu dại". Kinh thánh Thi thiên 14:1 có chép : “Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng chẳng có Đức Chúa Trời’’.

 

Đức Chúa Trời là nguyên nhân của sự hiện hữu của vũ trụ và muôn vật hết sức kỳ diệu này. Khi chấp nhận như vậy, sẽ phù hợp với khoa học. Ngài l nguồn gốc và là cơ sở đầu tiên để giải thích mọi phát minh của khoa học.

+ “Chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác”.

Đây không phải là sự chuyển hóa vô trật tự như sự chuyển hóa từ con vật qua con người như thuyết tiến hóa hay từ người chuyển ra mọi vật trong vũ trụ như thuyết luân hồi, m sự chuyển hóa đó phải tuân theo định luật nhất định của Tạo Hoá.

Ví dụ:

- Hydro + Oxy     =   Nước. ( H2 + O2 = H2O).

- Sự tuần hòan, chuyển thể của nước:

Nước (thể lỏng) bốc hơi thành hơi nước (thể khí),hơi nước gặp áp xuất không khí ngưng tụ thành nước, rơi xuống thành mưa v nếu nước gặp lạnh sẽ đông lại ( thể rắn) v ở nhiệt độ cao sẽ tan ra thành nước  rồi lại tiếp tục bốc hơi . Cứ như vậy nước chuyển thể theo quy luật của nó.

- Trong bản định luật hóa học, luôn có những  định luật: chất A + chất B = chất C.

- Con sâu được con ong đưa vào trong kén, một thời gian nhất định sẽ chui ra khỏi kén và biến thành con bướm.

Muôn vật chuyển hoá theo định luật nhất định mà Đấng tạo hóa đã đặt sẵn trong thiên nhiên, Đấng tạo hóa đ đặt sẵn trong vũ trụ hng tỉ định luật m khi vật chất tc hợp đúng với định luật sẽ sản sinh ra. Sự nhn giống, ghp ghen, Giống no ph hợp với giống nấy,  Kinh thánh chép  “ TUỲ THEO LOẠI”

2 * Định luật sự sống : Nhà sinh học Pasteur đã nghiên cứu nguồn gốc của sự sống bằng một thí nghiệm như sau:

Ông dùng một ống nghiệm, hút hết mầm  sự sống bên trong ống nghiệm.Sau một thời gian, bên trong ống nghiệm:chân không vẫn là chân không. Sau đó ông cho  mầm của sự sống vào ống nghiệm, sự sống bắt đầu phát triển. Từ đó ông đã tìm ra định luật của sự sống như sau : "Vật sống chỉ sinh từ vật sống".

Như vậy, mọi vật sống trên trái đất, vũ trụ chắc chắn được  sinh từ một Đấng sống. Ngài là Đấng Hằng Sống đời đời. Chất chết khơng hề sinh ra chất sống. vô cơ không hề sinh ra hữu cơ. Nhưng các nhà  duy vật biện chứng lại cho rằng: chất vô cơ sẽ sinh ra chất hữu cơ. Nhưng họ cho đây là “nhận định khách quan” chứ không phải là chủ quan.

3. Sự hiện hữu của vũ trụ chứng minh:

Những sự đẹp đẽ, logic trong vũ trụ từ những vật  lớn nhất cho đến những vật nhỏ nhất tất cả đều hoàn hảo kỳ diệu. Trong thái dương hệ trái đất quay quanh mặt trời với một cự ly và vận tốc thật chính xác, và mặt trăng quay quanh trái đất cũng vậy. Nó đã điều tiết khí hậu trên trái đất. Trong trái đất chúng ta đang sống có một hệ sinh thái thật chuẩn. Mưa thuận gió hòa, bốn mùa tám tiết. Cây cối phát sinh mầm sự sống. Trái đất được bao bọc bởi tầng ozon được gọi là “nhà kính” để chống được tia cực tím của mặt trời, và gìn giữ và bảo vệ chất oxy cho trái đất. Tất cả mọi sự hiện hữu đó không thể tự nhiên hình thành được, điều đó không thể tự nhiên có. Chúng ta nhìn vào chiếc đồng hồ chạy báo giờ một cách chính xác, không thể nào tự nhiên có được, như phải có một kỹ sư thiết kế nghiên cứu một cách tỉ mỹ, chế tạo từng bộ phận hòa hợp được liên kết với nhau để đồng hồ có thể chạy báo đúng giờ. Chúng ta nhìn vào mọi vật mà chúng ta đang sử dụng, mọi vật đều được những nhà khoa học, những kỹ sư nghiên cứu và chế tạo một cách công phu, cẩn thận. Và phải biết rằng, khi sản xuất ra bất cứ một sản phẩm nào, nhà sáng chế đều có mục đích của nó. Cho nên Đấng Tạo Hóa muốn sáng tạo nên vũ trụ và con người thì Ngài có mục đích. Như vậy, Khoa học cũng đang nghiên cứu vũ trụ và vạn vật, để có thể hiểu được một phần nào của những sự vận hành sự sống trong muôn vật. Và thật sự, những nhà khoa học phải thốt lên: “ Những gì tôi hiểu biết thật bé nhỏ như một hạt cát giữa sa mạc, một giọt nước giữa đại dương”.

Như vậy, sự hiện hữu của vũ trụ, vạn vật phải bắt nguồn từ một Đấng tạo hóa vô cùng khôn ngoan, cao cả. "Điều chi có thể biết về Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi ... Từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài" (Rô ma 1:19-20).

Ví dụ: Sự vận chuyển của hàng tỷ hành tinh trong vũ trụ, sự tuần hoàn trong trái đất, đều có định luật để bảo tồn mọi sự.

-          Chu kỳ sự vận hành của các hành tinh và thái dương hệ.

-          Hệ sinh thái của trái đất.

-          Muôn vật, được sinh ra và hiện hữu với những vẻ đẹp, và sự hoàn hảo của từng loài.

-          Cơ thể con người là là sự hoàn hảo từ sự phát triển hình thể, bộ não, lý trí và tình cảm, sự hoạt động tuần hoàn để bảo vệ sự sống trong cơ thể một cách kỳ diệu.

Một chiếc đồng hồ phải có một kỹ sư chế tạo. Một chiếc xe, một ngôi  nhà  đẹp tất nhiên phải có người làm ra nó. “Vả,chẳng có một cái nhà nào không phải bởi có người dựng nên;mà đấng dựng nên muôn vật ấy là Đức Chúa Trời” (Hê bơ rơ 3:4).

Hằng số vũ trụ và nguyên tắc hướng nhân

Một thiết kế khôn ngoan

Một chủ đề tuyệt diệu khc dng hổ trợ cho cc lý chứng luận ở trn về sự hiện hữu của Đức Cha Trời đó là giới thiệu những sự việc phi thường được biết đến dưới tn gọi “Hằng Số Vũ Trụ”, hoặc [“tỉ khối năng lượng của khoảng trống khơng gian”][1] v “Nguyn Tắc Hướng Nhn”. Chủ đề ny phức tạp hơn lý chứng mục đích luận rất nhiều dựa trn những khm ph khoa học vo thế kỷ qua. Lập luận ny cho rằng vũ trụ, dy ngn h, thi dương hệ, v hnh tinh của chng ta dẫy đầy những dấu hiệu by tỏ của sự Thiết Kế Khơn Ngoan.

 

Một lý chứng mới có liên quan đó là Nguyên Tắc Hướng Nhân, nó là “ý kiến về một vũ trụ by tỏ những nguyn lý cơ bản của sự thiết kế đặc biệt cho ý định bảo tồn những sinh vật thông minh; được gọi là con người”.[2] Khi niệm ny trích dẫn nhiều “khía cạnh được cn nhắc một cch trng hợp sao cho cần thiết v thích hợp đối với việc tồn tại trên Trái đất về sinh hố học, sự sống dựa trn nguyn tố carbon, v cuối cùng để cho con người khm ph về vũ trụ như thế ny”.[3] Nguyn Tắc Hướng Nhn trả lời cho cu hỏi: “Điều gì l sức mạnh ảnh hưởng đằng sau không gian, thời gian, vật chất, năng lượng, lương tâm; và tại sao chng nĩ cĩ thể qun bình một cch hi hịa đến nỗi khc nhau ở mức độ không đáng kể trong cơ cấu căn bản của chng muốn ngăn chận cả sự sng tạo lẫn sự ko di mi mi của sự sống?”[4]

Cũng giống như thế, một nhà thiên văn học nổi tiếng người Anh là Fred Hoyle (1915-2001) đ viết rằng “Một sự giải thích hợp lư theo thông thường cho rằng có một Đấng trí tuệ siêu phàm nhất đă thiết kế rất kỹ khoa vật lư học, cũng như hóa học và sinh vật học, và rằng không có năng lực nào trong thin nhiên mà không có khả năng suy nghĩ. Đối với tôi, dựa vào những sự kiện mà một ai đó dùng để tính th́ kết quả sẽ là quá lớn đến nỗi không có chút ǵ nghi ngờ khi phải kết luận rằng có một Thượng Đế”.[5] Như một khoa học gia khc đ by tỏ ý kiến về nĩ: “D thực tế con người khơng phải ởgiữa vũ trụ, nhưng dường như họ mới chính l trọng tm mục đích của nĩ”.[6]

Bằng Chứng Của Sự Thiết Kế Khơn Ngoan Trong Thế giới Cực Nhỏ. Mặc d hình ảnh minh họa tương đồng về Người Chế Tạo Đồng Hồ của William Paley vẫn luơn l  một bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ sự hiện hữu của Đức Cha Trời, nhưng những khm ph khoa học trong thế kỷ qua cũng đ thuyết phục tất cả mọi người rằng phải có Thượng Đế ngoại trừ những ai đóng kín tâm trí mình. Tất cả những lập luận v kinh nghiệm của chng ta cho chng ta biết rằng một ci my khơng thể cĩ nếu không có người chế tạo my. Tủ lạnh, xe, hệ thống sản xuất dy chuyền, tủ nước giải kht, my bay, vv…tất cả đều địi hỏi một trí thông minh để lm nn chng. Những gì khoa học khám phá trong một trăm năm qua đó là trong lnh vực nhỏ b, thật vậy trong lnh vực điện tử b nhỏ cĩ những dy sắp xếp lạ lng  về hệ thống cấu tạo thuộc sinh vật học có liên quan đến việc tạo nn sự sống.]

4. Kinh Thánh  chứng minh.

Người ta có thể xem kinh thánh như là moat tác phẩm của con người, ngay cả xem kinh thánh như những triết lý của những vị giáo chủ của các tôn giáo. Nhưng chứng nhân phải chứng minh Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời. Kinh thánh có sự hiện diện của Đức Chúa Trời, hay nói rằng: Lời Đức Chúa Trời là lời thành tín và chân that từ Đức Chúa Trời. Lời Chúa là chân lý, không bao giờ thay đổi.  Một cuốn sách thật kỳ diệu! Tại sao Kinh Thánh được gọi là lời Đức Chúa Trời?

Xem tiếp phần: Cơ sở chứng minh Kinh Thánh là lời Đức Chúa Trời !

 
VIDEO
HÌNH ẢNH NỔI BẬT





























 
thiet ke web thiet ke website web gia re lam web dep thiet ke web pro thiet ke web chuyen nghiep website gia re thiet ke website gia re thiet ke website chuyen nghiep thiet ke website pro thiet ke web gia re website chuyen nghiep web chuyen nghiep website web web site cong ty thiet ke web web 100$ website free web free website mien phi web mien phi cho thue xe thue xe can thue xe xe du lich thue xe du lich thue xe gia re thue xe hoi thue xe hoa thue xe cuoi thue xe du lich dich vu thue xe thue xe dich vu thue xe tu lai thue xe co tai thue xe thang hop dong thue xe cho thue xe gia re thue xe doi moi thue xe toyota thue xe ford thue xe camry thue xe honda sua may tinh sua laptop sua chua may tinh sua may tinh gia re bao tri may tinh bao tri mang bao tri he thong sua may tinh tai nha sua may tinh tan noi thiet ke mang thi cong mang mang wifi trien khai he thong mang may tinh may tinh IBM may tinh bo may tinh de ban nuskin my viet nuskin viet nam nuskin may rang ca phe ca phe sach ca phe nguyen chat